Liên kết “6 nhà” – hướng phát triển bền vững

Lượt xem: 100
Từ đó, tiến tới hạn chế tình trạng sản xuất nhỏ lẻ, đồng thời góp phần tăng quy mô sản xuất hàng hóa, vừa cho phép áp dụng các quy trình sản xuất phù hợp, hiện đại, đảm bảo chất lượng sản phẩm, an toàn thực phẩm và nâng cao năng lực quản lý, điều hành, vừa tổ chức sản xuất theo hợp đồng nhằm tránh tình trạng “được mùa, mất giá”…

Bài ca “giải cứu” sản phẩm nông nghiệp

Gần đây, thực hiện các biện pháp ngăn chặn lây lan của dịch Covid-19, người trồng thanh long, dưa hấu, sầu riêng… ở nước ta gặp khó vì sản phẩm xuất sang Trung Quốc gặp nhiều trở ngại.

Nhiều người, nhiều nhóm ở các địa phương, một lần nữa, lại bắt đầu chiến dịch kêu gọi “giải cứu” như là động thái chia sẻ với người nông dân trong hoàn cảnh khó khăn này. Điệp khúc “được mùa mất giá, được giá mất mùa” gắn với nông dân nước Việt trong nhiều năm qua chứ không chỉ vì Covid-19 lần này.

Tình trạng này không chỉ làm cho nông dân điêu đứng, nhiều người bị phá sản mà còn làm cho đất nước mất đi một khối lượng sản phẩm lớn, ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành nông nghiệp và cả nền kinh tế quốc gia.

Đơn cử như vụ giải cứu dưa hấu ở Quảng Ngãi vào đầu tháng 2/2020, hàng nghìn tấn dưa hấu của bà con tỉnh Quảng Ngãi đến kỳ thu hoạch nhưng không bán được, hoặc bị ép giá chỉ từ 600 – 8.000 đồng/kg.

Trước tình trạng người nông dân Quảng Ngãi có nguy cơ trắng tay, vỡ nợ vì dưa hấu đến mùa thu hoạch nhưng “bí” đầu ra, nhiều cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp tại nhiều tỉnh thành đã chung tay “giải cứu” dưa hấu.

Về phía doanh nghiệp, Công ty cổ phần Kềm Nghĩa đã chung tay cùng Quỹ Khởi Nghiệp Xanh “giải cứu” gần 13 tấn dưa cho nông dân Gia Lai. Đây là hoạt động nằm trong chương trình Love Farmers (Yêu thương nông dân) để kết nối nguồn lực giúp thu mua và tiêu thụ nông sản, giải quyết tình trạng ùn ứ, hỗ trợ các hoạt động chuyển giao khoa học kỹ thuật cho nông dân…

Bài học từ câu chuyện “giải cứu” đã có quá nhiều, song điệp khúc đó vẫn lặp đi lặp lại trong ngành nông nghiệp. Câu chuyện này là một minh chứng của sự thiếu liên kết và sản xuất chung của ngành.

Nguyên nhân dẫn đến hiệu quả liên kết thấp

Theo nhận định của nhiều chuyên gia trong ngành nông nghiệp, người sản xuất hiện nay chủ yếu vẫn mang tính nhỏ lẻ, phân tán chưa tuân thủ quy trình sản xuất, chưa tạo ra sản phẩm an toàn chất lượng đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng. Các hộ sản xuất chưa chú ý tới liên kết nhóm hộ mà vẫn sản xuất tự phát mạnh ai người đó làm nên chưa tạo được vùng sản xuất tập trung, dòng sản phẩm đủ lớn và ổn định.

Trong khi đó các doanh nghiệp chế biến tiêu thụ sản phẩm thường ký các hợp đồng với các trang trại lớn, các vùng có lượng sản phẩm lớn và ổn định. Đặc biệt tình trạng người sản xuất phá vỡ liên kết khi giá sản phẩm gia tăng đột biến, tự ý bán phá giá cho các thương lái khác khi giá bán cao hơn thường xuyên xảy ra…

Điều này dẫn đến hậu quả tình trạng “Được mùa mất giá, ít thiếu nhiều thừa”, hiệu quả kinh tế không cao, chưa tạo được tính bền vững trong sản xuất nông nghiệp. Nguyên nhân là do nhận thức của người dân nhiều nơi còn thấp, thiếu thông tin thị trường, một số bộ phận còn chạy theo lợi ích trước mắt.

Doanh nghiệp làm trung gian phân phối song đầu tư sản xuất nông nghiệp hiệu quả không cao, tính rủi ro lớn, bên cạnh đó là chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất nông nghiệp chưa cụ thể nên phần lớn các doanh nghiệp lớn còn chưa mặn mà đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp.

Việc liên kết giữa doanh nghiệp và người sản xuất chưa bền vững do chưa có cơ chế chia sẻ lợi nhuận, rủi ro, chủ yếu vẫn liên kết theo hình thức thương thảo thuận mua vừa bán. Tình trạng tiêu thụ sản phẩm vẫn còn qua nhiều khâu trung gian phân phối nên giá bán thực tế cao hơn nhiều so với giá thu mua tại cơ sở sản xuất, sức cạnh tranh chưa cao, chưa chiếm được lòng tin của người tiêu dùng. Công tác tuyên truyền quảng bá Marketting giới thiệu sản phẩm của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp còn yếu.

Đặc biệt, cơ bản người tiêu dùng hiện nay thiếu thông tin về sản phẩm, chưa biết cách nhận diện sản phẩm an toàn chất lượng cao, chưa nắm được địa chỉ cơ sở sản xuất uy tín, bên cạnh đó, một bộ phận người tiêu dùng thích các sản phẩm giá rẻ. Nguyên nhân là do công tác thông tin truyền thông định hướng sản phẩm theo khách hàng của doanh nghiệp còn hạn chế. Hậu quả là, người tiêu dùng phải sử dụng hàng hóa kém chất lượng, ảnh hưởng đến sức khỏe và mất lòng tin với người sản xuất.

Do công nghệ sản xuất lạc hậu, lại còn tình trạng “rau hai luống, lợn hai chuồng” là nguyên nhân dẫn đến chất lượng sản phẩm, an toàn vệ sinh thực phẩm chưa đảm bảo. Vì vậy, chất lượng nhiều nông sản do người Việt sản xuất không chỉ người tiêu dùng các nước phát triển (rất khó tính) mà ngay cả với người tiêu dùng trong nước vẫn rất quan ngại. Mặt khác, do công nghệ lạc hậu nên chi phí sản xuất trong nông nghiệp của nước ta còn rất cao. Vì vậy, sức cạnh tranh của nông sản Việt Nam thường yếu thế so với nông sản các nước khác không chỉ trên thị trường quốc tế mà ngay cả thị trường trong nước.

Thực trạng đó đang đặt ra yêu cầu cấp bách trong việc nâng cao công nghệ sản xuất nông nghiệp.

Tập trung thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp

Mới đây, tại dự thảo Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu lần thứ XVII Đảng bộ thành phố Hà Nội đã nhấn mạnh: Huy động và sử dụng có hiệu quả, ưu tiên các nguồn lực cho phát triển sản xuất, bảo đảm sinh kế cho người dân. Thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào khu vực nông thôn để xây dựng liên kết theo chuỗi giá trị. Nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo nghề cho lao động nông thôn, nhất là vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất, vùng xa trung tâm, giúp nông dân nâng cao năng suất, thu nhập…

Về vấn đề này, Giám đốc Trung tâm Phát triển nông nghiệp Hà Nội Hoàng Thị Hòa cho rằng, cần làm rõ hơn nữa các giải pháp để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp và phát triển các chuỗi giá trị gắn với thế mạnh từng địa phương. Đối với các huyện có thế mạnh sản xuất nông nghiệp cần có cơ chế tháo gỡ về tích tụ đất đai, nguồn vốn để xây dựng các mô hình nông nghiệp công nghệ cao. Đối với vùng chăn nuôi cần tính đến quy hoạch nhà máy chế biến trong vùng… Có như thế, nông nghiệp Thủ đô mới phát triển bền vững.

Theo đánh giá của nhiều chuyên gia trong ngành nông nghiệp, từ trước đến nay, chúng ta thường khuyến khích và tổ chức nhiều mô hình liên kết ngang hơn là liên kết dọc, ví dụ thành lập các hợp tác xã, các tổ hợp tác… Tuy nhiên, để sản xuất hiệu quả và nông sản của chúng ta có thể cạnh tranh được với các nước thì cần mở rộng hình thức liên kết dọc. Các hình thức này sẽ phân bố hài hòa lợi ích và rủi ro giữa các tác nhân.

Có thể thấy, liên kết trong sản xuất nông nghiệp có tầm quan trọng đặc biệt trong phát triển kinh tế và rất cần thiết trong thời điểm hiện nay.

Để phát huy những lợi thế trong liên kết sản xuất nông ngiệp, theo các chuyên gia, trong thời gian tới cần đẩy mạnh nghiên cứu, đề xuất phát triển và tăng cường liên kết phải xuất phát từ quan điểm phát triển chuỗi nông sản, nhất là chuỗi giá trị nông sản. Cần phải thống nhất và chú ý đồng bộ tất cả các khâu từ sản xuất đến người tiêu dùng.

Đặc biệt, hình thức liên kết giữa các doanh nghiệp, công ty với hộ nông dân ở miền núi đã có, nhưng chỉ ở những vùng sản xuất hàng hóa. Trong khi hầu hết các vùng miền núi, sản phẩm khó tập trung được số lượng lớn. Nên chăng ở các vùng này khuyến khích các doanh nghiệp, công ty hợp tác, liên kết phát triển các sản phẩm đặc sản hoặc đặc thù. Ngoài ra, cần mở rộng phát triển và mở rộng các chợ nông thôn hiện có để tăng cường các liên kết không theo hợp đồng.

Liên kết “6 nhà”- hướng phát triển bền vững

Trong thời mở cửa và hội nhập, yêu cầu cơ bản để nông sản có sức cạnh tranh là sản phẩm phải sạch, ngon, số lượng lớn, giá rẻ và có chiến lược thị trường tốt. Cái gốc rễ của vấn đề là từ khâu quy hoạch, nơi nào trồng cây gì cho phù hợp, ai đảm trách cung ứng giống tốt, liên kết và hỗ trợ nhau giữa nông dân và doanh nghiệp như thế nào? Vì vậy trong sản xuất nông nghiệp hiện nay rất cần sự “Liên kết 6 nhà” gồm: Nhà nông – nhà nước – nhà khoa học – nhà doanh nghiệp – nhà băng (ngân hàng) và nhà báo.

Đối với nhà nông, đa số nông dân vẫn còn quen với phương thức sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, chậm tiếp cận thông tin thị trường, chưa hoàn toàn gạt bỏ được tư tưởng ham lợi trước mắt và khó tính toán được chiến lược lâu dài. Đồng thời, một bộ phận nông dân còn hạn chế trong nhận thức về trách nhiệm tuân thủ các quy định của pháp luật nên họ rất dễ vi phạm hợp đồng trong quá trình liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, nhiều hộ nông dân mặc dù ký hợp đồng nhận đầu tư ứng trước của doanh nghiệp, nhưng khi giá nông sản trên thị trường lên cao thì lại sẵn sàng bán cho tư thương hoặc doanh nghiệp khác để hưởng giá cao hơn.

Đối với doanh nghiệp, là “đầu tàu”, là động cơ của mối liên kết. Doanh nghiệp giữ vai trò quan trọng liên kết “5 nhà” còn lại để hình thành vùng nguyên liệu sản xuất; hỗ trợ đầu vào và thu mua sản phẩm cho nông dân; truyên truyền từng bước tiến tới xây dựng thương hiệu sản phẩm nông sản.

Tuy nhiên, hiện nay các doanh nghiệp đang còn ngần ngại đầu tư cho sản xuất, kinh doanh nông – lâm – ngư nghiệp do vốn đầu tư lớn nhưng lại rủi ro cao và thu hồi chậm. Khi gặp rủi ro do thiên tai hay các nguyên nhân bất khả kháng khác, nông dân không trả được nợ cho doanh nghiệp, nếu các doanh nghiệp phải vay vốn sẽ kéo dài thời gian nợ ngân hàng làm tăng lãi suất vốn vay, giá thành sản phẩm chế biến tăng, ảnh hưởng lớn tới hiệu quả hoạt động và tài chính. Mặt khác, khi xảy ra tranh chấp, chưa có hành lang pháp lý phù hợp để hỗ trợ giải quyết rõ ràng, phân minh trách nhiệm và quyền lợi.

Các nhà khoa học có vai trò quan trọng trong việc tạo “đầu vào” có chất lượng cao, giảm giá thành nhờ công nghệ… nhưng hiện nay, việc liên kết với các “nhà” còn lại khá lúng túng và hiệu quả chưa cao. Nhất là việc liên kết với người nông dân để “xã hội hóa” các công nghệ hiệu quả.

Còn Nhà nước, với vai trò nhạc trưởng tạo ra hành lang pháp lý phù hợp, đảm bảo cho sự liên kết các nhà còn lại chặt chẽ và hiệu quả. Cần có những cơ chế hợp lý trong việc giải quyết tranh chấp trong liên kết giữa các nhà, đặc biệt là hợp đồng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm giữa nhà doanh nghiệp và nhà nông. Cần có một chế tài phù hợp để hỗ trợ giải quyết tranh chấp hợp đồng thu mua giữa doanh nghiệp và người sản xuất. Đối với những trường hợp thiệt hại do các nguyên nhân bất khả kháng, cần có chính sách cụ thể để hỗ trợ thiệt hại cho các bên tham gia liên kết.

Hiện nay, với nông sản, nếu có sự liên kết tốt thì thay vì bán sản phẩm thô dưới dạng nguyên liệu chúng ta phải tìm cách chế biến và bảo quản để tạo thế quân bình giữa cung – cầu, đồng thời điều chỉnh được giá bán. Ngược lại, khi sức mua giảm, phải có những biện pháp tiếp thị để kích cầu thị trường.

Ngân hàng là một trong những tác nhân tham gia vào chuỗi nông sản. Ngân hàng có vai trò hỗ trợ ngày càng quan trọng trong việc gia tăng giá trị và hiệu quả của chuỗi. Khi ngân hàng tham gia vào chuỗi giá trị sẽ giúp giảm thiểu rủi ro thị trường, rủi ro người vay, rủi ro thời tiết, dịch bệnh; tiết kiệm chi phí…

Đặc biệt, truyền thông, báo chí đóng vai trò quan trọng trong thúc đẩy phát triển KH&CN và lan tỏa mô hình tốt, hiệu quả cao, liên kết hài hòa. Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần Văn Tùng cho biết, để khoa học và công nghệ (KH&CN) trở thành động lực và ngày càng phát triển, nhất là trong lĩnh vực trọng điểm như nông nghiệp, công nghiệp, y tế… thì công tác thông tin tuyên truyền, phổ biến kiến thức người dân cũng như các cấp quản lý là hết sức quan trọng. Qua đó, thấy rõ vai trò của KH&CN trong sản xuất đời sống, trong việc nâng cao hiệu quả và tính cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa.

Cùng chia sẻ về vấn đề này, ông Trần Quang Tuấn – Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN cho rằng, trong phát triển kinh tế – xã hội đất nước, nông nghiệp luôn được đặt ở vị trí trung tâm, là ngành mũi nhọn quan trọng. Đảng và Nhà nước đã xác định, phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải dựa vào KH&CN và ưu tiên đầu tư cho KH&CN. Để triển khai được các mục tiêu quan trọng của ngành nông nghiệp thì công tác truyền thông giữ vai trò rất quan trọng.

Đơn cử như mô hình đưa cây thanh long ruột đỏ về trồng tại trang trại của anh Lê Xuân Bình ở thôn Duyên Lộc, xã Định Hải là người đầu tiên ở huyện Yên Định (Thanh Hóa).

Anh Bình tâm sự: “Đang loay hoay chưa biết làm thế nào thì tình cờ tôi đọc được bài viết trên Báo Kinh tế nông thôn, nay là (tạp chí Kinh tế nông thôn) trong đó có hướng dẫn về kinh nghiệm trồng thanh long ruột đỏ và tư vấn địa chỉ mua giống thanh long ruột đỏ uy tín.

Từ đó, tôi thường xuyên truy cập vào trang Web của Kinh tế nông thôn (kinhtenongthon.vn) để tìm đọc các bài liên quan đến cây thanh long ruột đỏ. Nhờ có những thông tin trên báo mà tôi học được kinh nghiệm sản xuất – kinh doanh trang trại”.

Sau hơn 1 năm trồng và chăm sóc, cây thanh long ruột đỏ tỏ ra thích nghi với điều kiện khí hậu cũng như thổ nhưỡng ở đây, sinh trưởng và phát triển ổn định, tỷ lệ đậu quả từ 80 đến 90%. Hiện anh có hơn 700 trụ thanh long ruột đỏ cho quả được 4 năm, thu lãi trên 300 triệu đồng/năm.

Như vậy, xu thế phát triển tất yếu của nền nông nghiệp hiện đại và bền vững là xây dựng thành công mô hình liên kết 6 nhà “nhà nông – nhà nước – nhà khoa học – nhà doanh nghiệp – nhà băng – nhà báo”. Bởi suy cho cùng, nếu liên kết chặt chẽ, tất cả các bên đều có lợi.

Mô hình hiệu quả nhờ áp dụng liên kết

Mô hình chuỗi cung ứng gà thịt an toàn do Công ty cổ phần chăn nuôi và tiêu thụ gà ta Phùng Dầu Sơn phối hợp thực hiện cùng HTX dịch vụ nông nghiệp xã Phú Mỹ (huyện Phù Ninh – Phú Thọ) triển khai từ đầu năm 2016 là một ví dụ điển hình. Khi tham gia chuỗi liên kết, các hộ xã viên được Công ty cung ứng con giống, vật tư, thuốc phòng dịch và hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc trong quá trình chăn nuôi, bao tiêu sản phẩm. Quá trình tổ chức sản xuất được các thành viên HTX thường xuyên bàn bạc và thực hiện theo đúng quy trình.

Sản phẩm chuối ngự Đại Hoàng đang được Công ty VinEco (Tập đoàn Vingroup) thu mua, đưa vào hệ thống siêu thị để giới thiệu tới người tiêu dùng trên cả nước là một điển hình, cho thấy sự hiệu quả của việc liên kết phát triển kinh tế trong nông nghiệp

Mô hình hiện có 2 gia trại với lượng đàn lớn trên 10.000 con/lứa và hơn 10 hộ chăn nuôi với lượng đàn 500 – 1.000 con/lứa (trung bình một năm xuất bán từ 2 – 3 lứa gà). Với giá Công ty thu mua hiện nay là 58.000 đồng/kg thịt gà hơi, chuỗi cung ứng gà thịt an toàn Phùng Dầu Sơn đã tạo nguồn thu nhập đáng kể cho các xã viên, cung ứng cho cửa hàng thực phẩm an toàn trong và ngoài tỉnh.

Còn với HTX dịch vụ sản xuất, sơ chế và tiêu thụ sản phẩm rau an toàn xã Tứ Xã (huyện Lâm Thao), khi tham gia liên kết, trên cơ sở quy hoạch vùng sản xuất của địa phương, HTX đã tập trung tổ chức lại sản xuất, tập huấn, đào tạo cho 70 hộ tham gia về bộ tiêu chuẩn, đảm bảo sản xuất theo đúng quy trình VietGAP và các khâu từ sơ chế đến đóng gói bao bì, dán tem truy xuất nguồn gốc sản phẩm.

HTX cũng đã chủ động xúc tiến, ký kết hợp đồng cung ứng rau an toàn với Công ty VinEco và một số cửa hàng rau an toàn tại thành phố Việt Trì và Hà Nội với sản lượng 800kg – 1,2 tấn/ngày; giá trị sản phẩm gấp 1,5 – 2 lần, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân.

Anh Nguyễn Văn Nghĩa – Giám đốc HTX cho biết: HTX sẽ tiếp tục mở rộng quy mô sản xuất lên 20 ha, thu hút thêm nhiều hộ sản xuất và đơn vị kinh doanh theo chuỗi liên kết để sản phẩm có đầu ra bền vững, tạo được chỗ đứng trên thị trường.

Liên kết sản xuất là yếu tố quan trọng trong giai đoạn hiện nay nhằm phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững. Để hình thức này ngày càng nhân rộng và phát triển, ông Trần Tú Anh – Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Phú Thọ cho biết: Thời gian tới, ngành tiếp tục tham mưu cho tỉnh rà soát, ban hành các chính sách nhằm tạo điều kiện để doanh nghiệp, HTX đầu tư vào nông nghiệp, liên kết sản xuất. Cân đối, bố trí nguồn lực đầu tư cơ sở hạ tầng sản xuất nông nghiệp để hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung theo thế mạnh của từng địa phương gắn với đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, xây dựng thương hiệu nông sản, góp phần tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.

Cùng với đó, làm tốt vai trò quản lý của Nhà nước trong việc giám sát ký kết hợp đồng giữa bên sản xuất và bên tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, đảm bảo nguyên tắc các bên tham gia liên kết đều bình đẳng và cùng có lợi, góp phần xây dựng các mối liên kết bền vững, hiệu quả.

Nguồn: KTNT