Tọa đàm trực tuyến về môi trường khu công nghiệp và làng nghề

Lượt xem: 128

Hôm nay, 26/10, Cổng TTĐT Chính phủ tổ chức tọa đàm trực tuyến "Môi trường trong các khu công nghiệp và làng nghề- Thực trạng và giải pháp".

Hôm nay, 26/10, Cổng TTĐT Chính phủ tổ chức tọa đàm trực tuyến “Môi trường trong các khu công nghiệp và làng nghề- Thực trạng và giải pháp”.

Ảnh Chinhphu.vn

Tham dự tọa đàm có:

– Ông Bùi Cách Tuyến, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường.

– Ông Vũ Quốc Tuấn, Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam.

– TS. Nguyễn Văn Phương, Chủ nhiệm Bộ môn Luật Môi trường, Đại học Luật Hà Nội.

MC: Bảo vệ môi trường là nhiệm vụ quan trọng của bất kì quốc gia nào. Đối với Việt Nam, là nước đang phát triển mạnh về kinh tế nên việc mọc lên ồ ạt các khu công nghiệp, làng nghề đã ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường. Luật BVMT 2005 thực sự đã làm hết ‘công suất’ của mình đối với thực tế này của Việt Nam hiện nay hay chưa? Thưa Thứ trưởng?

Ông Bùi Cách Tuyến: Tổng số văn bản liên quan đến môi trường trong thời gian qua là rất lớn. Từ khi Bộ Tài Nguyên và Môi trường được thành lập (năm 2002) đến 2010, Bộ đã trình 136 văn bản để các cấp ban hành, trung bình mỗi năm 20 văn bản, chưa kể 20 văn bản đã và sẽ ban hành trong năm 2011. Và 136 văn bản đó chiếm tới gần 50% lượng văn bản ngành Tài nguyên và Môi trường đã ban hành hoặc trình cấp trên ban hành. Bộ Tài nguyên và Môi trường quản lý 7 ngành thì môi trường đã chiếm phân nửa.

Như thế, có thể nói, các văn bản xuất phát từ các luật cơ bản như Luật Bảo vệ môi trường năm 1993 và Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 rất nhiều. Các tổ chức quốc tế, các quốc gia phát triển đánh giá hệ thống pháp luật về môi trường của chúng ta là cập nhật, hiện đại và tương đối đầy đủ.

Tuy nhiên, vấn đề ở đây là việc thi hành luật, ở các cấp cơ sở và thậm chí trên một số khía cạnh, ở một số bộ, ngành là chưa mạnh mẽ. Có nhiều nguyên nhân, như nhận thức chưa đầy đủ trong mọi bộ phận của xã hội, từ cơ quan quản lý, lãnh đạo tới các ban, ngành và người dân, về sự phát triển bền vững. Trong khi đó, nhiều nơi trên thế giới đã đi tới giai đoạn chú trọng tới tăng trưởng xanh, kinh tế xanh, để làm sao đạt được sự phát triển hài hòa, chú trọng chất lượng sống của con người. Chúng ta hiện vẫn chưa có nhận thức đầy đủ về điều này. Từ đó, dẫn tới một số hệ lụy về môi trường như đã nói.

Thêm vào đó, Việt Nam vẫn là nước đang phát triển, bộ máy chuyên nghiệp về bảo vệ môi trường mới hình thành, không thể sánh được với các quốc gia phát triển. Đội ngũ nhân lực còn thiếu về số lượng, chất lượng chưa cao và trong giai đoạn đầu thường phải huy động nhân lực từ các ngành khác.

Thứ trưởng Bùi Cách Tuyến – Ảnh Chinhphu.vn

Công tác thanh kiểm tra tuy đã tiến hành rất nhiều, mạnh mẽ nhưng chưa đáp ứng dược tình hình phát triển, nhất là khi chúng ta đặt mục tiêu công nghiệp hóa vào năm 2020. Từ 2009 tới 2011, thanh tra của Bộ và Tổng cục Môi trường đã thanh tra 1622 cơ sở, phạt 40 tỷ đồng và truy thu 130 tỷ đồng. Tuy nhiên, đà phát triển của các doanh nghiệp rất nhanh nên công tác thanh kiểm tra chưa đáp ứng được.

Nói thêm về các khu công nghiệp, khu kinh tế. Một vấn đề lịch sử là Luật Bảo vệ môi trường ra đời năm 2005 nhưng ở thời điểm đó nhiều khu kinh tế, khu công nghiệp đã ra đời. Do đó, nhiều khu kinh tế, khu công nghiệp lẽ ra phải làm đánh giá tác động môi trường để có cái nhìn toàn diện về sự tương tác giữa phát triển kinh tế xã hội với môi trường, nhưng điều này không được thực hiện. Do đó tạo ra một lỗ hổng trong quản lý.

Thêm vào đó, Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 không phân biệt rõ sự khác biệt giữa khu kinh tế và khu công nghiệp. Thực chất, cấu trúc của 2 thực thể này khác nhau, khu kinh tế có thể gồm nhiều khu công nghiệp. Điều này cũng dẫn tới nhiều hệ lụy trong thực tế bảo vệ môi trường.

Mặt khác, trong Luật, sự phân công quản lý nhà nước với các khu kinh tế, khu công nghiệp giữa các bộ, ngành Trung ương và địa phương vẫn chưa được rõ. Chính vì vậy, trong thực hành có những chỗ trống và chồng lấn, dẫn tới những khuyết điểm mà chúng ta nhận thấy và các cơ quan báo chí thường xuyên phát hiện.

Chính vì vậy, tuy Luật Bảo vệ môi trường đã phát huy được vai trò, nhưng thực tế phát triển nhanh chóng của đất nước đòi hỏi cần phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Dự kiến, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ kiến nghị Quốc hội sửa đổi Luật vào năm 2013, để có một Luật tiên tiến hơn và đáp ứng yêu cầu thực tế.

MC: Có một luật gia đã thẳng thắn bày tỏ “Nhiều quy định của pháp luật môi trường trong thời gian qua chỉ tồn tại trên giấy. Như vấn đề thu phí môi trường đối với các phương tiện cơ giới quy định tại Luật BVMT cũ (năm 1993). Nhưng cho đến khi Luật này hết hiệu lực thì điều khoản này vẫn chưa được thi hành”. Như vậy tính răn đe, nghiêm khắc của Luật BVMT chưa cao. Thưa ông Nguyễn Văn Phương, ông nghĩ sao về vấn đề này?

Ông Nguyễn Văn Phương: Trước hết tôi cho rằng phải đánh giá thành công của cơ quan quản lý nhà nước đặc biệt là cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật, từ năm 92, 93 chúng ta đã có Luật bảo vệ môi trường và hệ thống văn bản pháp luật, sau đó sửa đổi luật này và năm 2005, ban hành Luật bảo vệ môi trường sửa đổi. Theo tôi, Luật 2005 vào thời điểm đó được đánh giá là tương đối tiến bộ, bao trùm gần như mọi mặt, lĩnh vực quan hệ xã hội cần điều chỉnh. Tuy nhiên, ở đây, Luật bảo vệ môi trường chưa được triển khai thực hiện tốt. Tôi cho rằng, so sánh, đối chiếu quy định của Luật bảo vệ môi trường với những quy định của các văn bản pháp luật khác đang tồn tại những mâu thuẫn nhất định, dẫn tới hiệu quả áp dụng chưa cao.

Thứ 2, tôi chia sẻ quan điểm với Thứ trưởng, chúng ta đã nỗ lực áp dụng, triển khai các quy định pháp luật nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Nó có nhiều nguyên nhân, trong đó, tôi cho rằng có nguyên nhân về quyết tâm chính trị, giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường. Ví dụ, thực tế, chúng ta đã xử lý rất nhiều vi phạm của các doanh nghiệp, cá nhân. Một trong những hình thức xử lý là đóng cửa nhà máy. Nhưng có nhiều hành vi vi phạm nghiêm trọng kéo dài nhưng chúng ta chưa xử lý dứt điểm ngay, chưa chấm dứt hoạt động của nhà máy gây ô nhiễm đó. Đóng cửa 1 nhà máy có thể gây ra phản ứng phụ về kinh tế, xã hội, công ăn việc làm, nhưng nếu cương quyết, quá trình này sẽ tạo ra hiệu ứng xã hội, tạo tính răn đe chung.

Khi chúng ta chưa cương quyết áp dụng triệt để các quy định của pháp luật, rõ ràng là dẫn tới hiện tượng nhờn pháp luật.

MC: Trên thực tế là việc phát triển các làng nghề có hiệu quả kinh tế như tạo công ăn việc làm, tạo thu nhập và giữ gìn được những mặt hàng truyền thống. Nhưng hệ lụy của nó là các làng nghề bị ô nhiễm nghiêm trọng. Chúng ta kêu gọi và chấn chỉnh từ nhiều năm nay nhưng dường như không mấy khả quan. Vậy đâu là cốt lõi của vấn đề ô nhiễm làng nghề?

Ông Vũ Quốc Tuấn – Ảnh Chinhphu.vn

Ông Vũ Quốc Tuấn: Theo báo cáo mới đây của đoàn giám sát của Quốc hội, hiện nay cả nước có khoảng 4.575 làng nghề, trong đó có hơn 1.300 làng nghề truyền thống được công nhận. Làng nghề tồn tại hàng trăm năm nay, thậm chí có làng nghề tồn tại 1.000 năm. Tình trạng ô nhiễm môi trường làng nghề đã diễn ra khá lâu và gần đây, ngày càng nghiêm trọng hơn. Việc xử lý ô nhiễm chưa mang lại kết quả như mong đợi. Tôi đồng tình với ý kiến của ông Bùi Cách Tuyến, đúng là chúng ta có nhiều văn bản quy phạm pháp luật, có Luật Bảo vệ môi trường 2005.

Tuy nhiên, việc tổ chức thực hiện luật, các văn bản dưới luật còn yếu, do nhiều nguyên nhân như nhận thức về phát triển bền vững còn chưa sâu sắc, kinh phí cho công tác này còn hạn hẹp…

Vấn đề xây dựng các cụm tiểu thủ công nghiệp và làng nghề đã được đặt ra, để di chuyển các ngành nghề gây ô nhiễm nằm trong dân cư vào các cụm này. Tại các cụm này, sẽ xử lý đồng bộ, tập trung chất thải, đặc biệt là nước thải. Nhưng đến nay, việc thực hiện di dời này chưa đáng kể. Bởi, một là, chi phí thuê đất, mặt bằng trong cụm quá cao. Hai là, chi phí di chuyển, tuy có chính sách hỗ trợ, nhưng cũng chưa thực hiện được bao nhiêu. Thành ra, việc tổ chức thực hiện chưa được tốt.

Xin đơn cử trường hợp cụ thể, giữa năm 2009, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải ký văn bản yêu cầu hai thành phố là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh di chuyển 17 ngành nghề gây ô nhiễm nặng ra khỏi nội thành. Nhưng đến nay, công việc này chưa thực hiện được bao nhiêu.

Về lực lượng, nguồn lực, tôi cho rằng, còn phân tán, thanh tra, kiểm tra còn ít. Ngoài lực lượng của Nhà nước, chúng ta còn coi nhẹ lực lượng xã hội. Chúng ta cần quan tâm hơn nữa công tác xã hội hóa. Bởi ở địa phương, nơi có các làng nghề, có nhiều tổ chức, đoàn thể như Mặt trận Tổ quốc, cựu chiến binh, thanh niên, phụ nữ, nông dân… và cả Hội làng nghề. Nếu Nhà nước chuyển giao một phần dịch vụ bảo vệ môi trường cho các tổ chức xã hội thì tôi nghĩ, có thể tiến hành được khá hơn.

Tôi cho rằng, cốt lõi của vấn đề là nhận thức, chính sách và tổ chức thực hiện.

MC: Cả nước có hơn 4.500 làng nghề. Chính quyền xã, huyện, tỉnh đương nhiên có nắm được vấn đề ô nhiễm nhưng có hay không tình trạng nể nang, bao che cho nhau. Trong khi thực tế, môi trường các làng nghề phải gọi là đã vượt mức báo động từ lâu.

Ông Vũ Quốc Tuấn: Qua thực tế khảo sát nhiều làng nghề, thấy đúng là lãnh đạo các cấp chính quyền địa phương có biết vấn đề, nhưng họ cũng gặp những khó khăn.

Xin nêu một ví dụ, tôi có đến xã Dương Liễu, Hoài Đức, Hà Nội, các đồng chí cũng có kế hoạch di chuyển ngành nghề ô nhiễm như sản xuất chế biến lương thực thực phẩm ra khỏi khu dân cư, nhưng họ nói, quy hoạch cụm làng nghề thì lại vướng, thành ra không có đất, và có đất rồi, quy hoạch rồi còn phải chờ xét duyệt. Như vậy đã có chủ trương nhưng không thực hiện được.

Ví dụ thứ 2, trách nhiệm cụ thể của từng cấp không rõ và nguồn lực của họ cũng gặp hạn chế. Chúng tôi xuống một làng nghề, anh em ở xã đều biết vấn đề, nhưng họ lực bất tòng tâm. Nếu chuyển từ đốt bằng than sang đốt lò ga, chi phí tốn kém hàng chục tỷ đồng. Khi chúng tôi đến Dương Liễu, chúng tôi có giúp doanh nghiệp thí điểm sử dụng phế liệu từ bã dong riềng chế biến thành phân vi sinh, rất tốt, nhưng tốn khoảng 20 tỷ đồng. Như vậy không đủ lực để làm, xã chỉ có thể cùng làng nghề khơi thông mương máng trong xã, tổ chức đội thu gom rác hàng ngày, tuần.

MC: Trên cả nước có rất nhiều khu chế xuất, khu công nghiệp. Theo quy định, khi thành lập các khu này, cần phải tuân thủ các quy định về quan trắc không khí, quản lý chất thải… Tuy nhiên, hiện nay tình trạng ô nhiễm tại các khu công nghiệp, khu chế xuất đã trở thành vấn nạn. Có thể giải thích điều này như thế nào?

Ông Bùi Cách Tuyến: Về việc này, theo tôi có thể giải thích được vì nó có quy luật. Một quy luật quan trọng nhất được thế giới thừa nhận ở một mức độ nào đó là quy luật tương quan giữa phát triển kinh tế và ô nhiễm môi trường. Ở tất cả các quốc gia, trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế, đường cong biểu diễn ô nhiễm môi trường cũng đi theo. Khi tổng sản phẩm nội địa hay lợi tức bình quân đầu người gia tăng đến một mức nào đó, các cá nhân trong cộng đồng có đủ đóng góp để làm mức ô nhiễm giảm xuống. Người ta đã có những nghiên cứu khoa học rất kỹ, xây dựng mô hình ở các quốc gia nay đã phát triển. Theo đó, ở mức lợi tức khoảng từ 6.000 đến 12.000 USD thì ô nhiễm môi trường bắt đầu giảm xuống.

Ông Nguyễn Văn Phương – Ảnh Chinhphu.vn

Tuy nhiên, theo quan điểm cá nhân tôi, có nhiều chỉ tiêu về môi trường không phải đợi đến mức lợi tức đó chúng ta mới có thể đạt được. Ví dụ, sự sạch sẽ của các thành phố, rác thải bừa bãi… phụ thuộc hoàn toàn vào ý thức công dân và sự lãnh đạo của các địa phương. Thành phố nào có sự thông tin, tuyên truyền, giáo dục quần chúng và tổ chức tốt, thành phố đó sẽ sạch đẹp. Do đó, cần phải xác định và ưu tiên những chỉ tiêu môi trường có thể làm được ngay trong điều kiện các nước đang phát triển.

Tuy nhiên, có những chỉ tiêu đòi hỏi sự đầu tư rất lớn mới có thể thay đổi được, như hàm lượng oxit nito trong không khí, muốn giảm cần phải thay đổi hàng loạt công nghệ, như ô tô trên đường cần chuyển từ tiêu chuẩn euro 2 sang tiêu chuẩn euro 4, 5; các doanh nghiệp cần thay đổi công nghệ để phát thải oxit nitơ vào không khí thấp.

Tôi cho rằng, Việt Nam là một nước đang phát triển trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, cũng không tránh khỏi ô nhiễm. Theo các chuyên gia quốc tế, nếu GDP tăng gấp đôi thì ô nhiễm môi trường có thể tăng gấp 3, 4. Do đó, chúng ta cần thừa nhận, chấp nhận quy luật này và tìm ra những giải pháp phù hợp nhất với sức mạnh của nền kinh tế để giải quyết.

Thứ hai, tôi cho rằng yếu tố cực kỳ quan trọng là đạo đức môi trường của doanh nghiệp, của những con người tham gia vào quá trình phát thải các chất ô nhiễm. Ví dụ, về mặt công nghệ tại Việt Nam, tuy chưa bằng các nước phát triển, nhưng nhiều doanh nghiệp cũng đã trang bị những thiết bị hiện đại, nhiều nhà máy điện than, xi măng… đã sử dụng máy lọc bụi tĩnh điện có thể làm giảm tới 99,9% lượng bụi phát thải. Tuy nhiên, cũng phải nói thêm về sự lưu tâm của con người trong việc đóng hay mở cầu dao cho máy hoạt động. Nếu về đêm, người ta ngắt cầu dao điện thì bụi sẽ tiếp tục phát thải vào không khí. Có thể nói đây là một phạm trù khác, không phải là một vấn đề kỹ thuật.

Trong lần kiểm tra nhà máy xử lý nước thải ở ven song Hậu tại Hậu Giang, nguyên Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Kiên có nói rằng, đành rằng công nghệ này là tốt, nhưng ban đêm có mở cống để xả nước thải chưa xử lý ra sông hay không.

Do đó, ở đây có 2 vấn đề. Một là quy luật như đã nói, mà chúng ta phải chấp nhận ở một mức độ nào đó. Hai là vấn đề trình độ, ý thức trong cộng đồng gồm nhiều thành phần khác nhau, với đạo đức môi trường khác nhau.

Còn về mặt kỹ thuật, chính quyền và kể cả các cơ quan phi chính phủ không thể nào kiểm soát hết được, chúng ta cần phải tiến dần tới hệ thống quan trắc tự động… Tất cả thông tin được đưa về các trung tâm điều khiển và đồng thời dựa trên những kết quả này để xử lý kịp thời. Điều này là hết sức cần thiết. Ví dụ, trong lĩnh vực tranh chấp đất đai, chúng ta chưa xử lý kịp thì đất vẫn còn đó, nhưng trong lĩnh vực môi trường, nếu không nhanh chóng thì có thể những bằng chứng sẽ trôi đi…

Tình trạng ô nhiễm ở các khu chế xuất, khu công nghiệp cũng có những lý do chính như tôi nói, chưa kể chính quyền địa phương chưa có quan tâm đầy đủ, nguồn lực kinh tế của các doanh nghiệp còn nhiều khó khăn…

MC: Có ý kiến cho rằng hiện tại, tình trạng xuất nhập khẩu chất thải và phế liệu có chiều hướng diễn biến phức tạp, nhất là đối với các doanh nghiệp trong khu chế xuất và làng nghề. Như vậy, phải chăng là các quy định về xuất nhập khẩu chất thải và phế liệu khi áp dụng đối với doanh nghiệp.

Ông Nguyễn Văn Phương: Trước hết cũng phải nói rằng, có một số doanh nghiệp thực sự có nhu cầu nhập khẩu phế liệu, quá trình nhập khẩu này, nếu kiểm soát tốt sẽ giúp cho phát triển kinh tế với những nguồn nguyên liệu rẻ hơn nguyên liệu khai thác từ tài nguyên.

Bên cạnh đó, doanh nghiệp bao giờ cũng có xu hướng tìm kiếm lợi nhuận càng cao càng tốt, từ đó họ không chỉ nhập phế liệu về sử dụng mà có thể có doanh nghiệp còn nhập cả rác thải về, chôn lấp đâu đó không đảm bảo môi trường. Bản thân doanh nghiệp được hưởng lợi nhưng môi trường bị ảnh hưởng.

Có rất nhiều nguyên nhân, nhưng một trong những nguyên nhân mà theo tôi là ở hệ thống quy định của pháp luật hiện hành còn bất cập, mâu thuẫn.

Ví dụ, như điều 43 về nhập khẩu phế liệu quy định không rõ ràng, như tiêu chí làm sạch, từ phía cơ quan nhà nước cũng như doanh nghiệp có thể có sự chênh lệch như thế nào là làm sạch.

Thứ 2, hệ thống quy chuẩn về bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu chưa đầy đủ. Chúng ta cho phép nhập khẩu 20 loại phế liệu, nhưng mới chỉ có 3 quy chuẩn. Cũng ngay ở điều 43, phía trên yêu cầu làm sạch, nhưng ở khoản 2 lại quy định là phải có hệ thống xử lý các tạp chất đi kèm.

Phân tích kỹ điều này, không chỉ trong nội tại của quy định mâu thuẫn. Nhìn rộng ra, quy định về nhập khẩu phế liệu của Việt Nam lại mâu thuẫn với những quy định khác của pháp luật.

Thêm nữa, quá trình kiểm tra giám sát cũng còn vấn đề, tôi cho rằng, đạo đức môi trường cần nâng cao, nhưng tôi thấy chúng ta mới chỉ trông mong vào quá trình kiểm tra giám sát của hệ thống cơ quan quản lý nhà nước mà quên mất một lực lượng khác là xã hội dân sự, người dân, những người chịu ảnh hưởng trực tiếp từ môi trường.

Trong trường hợp doanh nghiệp cố tình vi phạm, cộng đồng dân cư phải có quyền gì đó để phản ứng với hành vi này.

MC: Mới đây nhất, UBND tỉnh Bắc Ninh thông qua Đề án xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề giấy Phong Khê, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh lập với tổng số tiền lên tới 100 tỉ đồng. Đây mới chỉ là 1 làng nghề, vậy còn hàng trăm làng nghề, hàng chục khu công nghiệp, khu đô thị đang bị ô nhiễm trầm trọng khác thì sao? Thứ trưởng nghĩ sao về câu nói của Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Hữu Chí, đại ý là nhiều khu công nghiệp, làng nghề nộp được 1 đồng ngân sách thì phải bỏ ra 3-5 đồng để khắc phục hậu quả môi trường?

Ông Bùi Cách Tuyến: Làng nghề giấy Phong Khê là một đối tượng gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và được liệt kê trong phụ lục Quyết định 63 năm 2009 của Thủ tướng, đưa vào trọng điểm giải quyết ô nhiễm. Trong thời gian qua, tôi cũng có tham gia đoàn của Quốc hội kiểm tra tại làng nghề và các thànhviên trong đoàn đều công nhận tình trạng ô nhiễm tại đây rất nặng nề.

Cũng phải nói thêm, rất nhiều nhà chuyên môn tham gia đoàn kiểm tra tại Phong Khê cho rằng cần một định nghĩa xác đáng về làng nghề. Thực tế, tại Phong Khê có những cái có thể gọi là “công nghiệp mini” chứ không phải là làng nghề. Những nhà máy cán thép, luyện thép và tương tự nên đưa vào khu công nghiệp thì đúng hơn, vì gây ô nhiễm rất lớn và tiềm ẩn nguy cơ tai nạn lao động. Nhiều nơi chúng tôi khảo sát đều có tình trạng này.

Bên cạnh đó, cũng phải thừa nhận rằng không phải mọi làng nghề đều gây ô nhiễm. Cần xác định rõ ràng làng nghề nào cần được xã hội và Nhà nước hỗ trợ, làng nghề nào các doanh nghiệp cần phải chịu trách nhiệm theo nguyên tắc ai gây ô nhiễm người đó phải khắc phục. Còn nếu không, sẽ có sự lẫn lộn và chúng ta sử dụng ngân sách vào những mục tiêu không thỏa đáng.

Thứ hai, từ trước tới nay Nhà nước đã có nhiều chương trình hỗ trợ xử lý ô nhiễm làng nghề, như rượu Làng Vân, các vùng sản xuất miến, bún, chế biến thủy sản… Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là trong nhiều trường hợp, sau khi Nhà nước xây dựng một hệ thống xử lý nước thải tốn hàng tỷ đồng, thậm chí hàng chục tỷ đồng, nhưng lại không có cơ chế quản lý và giao về cho địa phương. Nhiều địa phương không có kinh phí để quản lý, duy trì hoạt động hệ thống này. Do đó, các làng nghề là đối tượng cần một biện pháp tổng hợp, nhiều mặt từ con người, cơ chế, luật lệ, kinh phí, biện pháp quản lý,… chưa kể đến đạo đức môi trường, cần những biện pháp căn cơ.

Xin nói thêm về ý kiến của Thứ trưởng Nguyễn Hữu Chí. Thứ trưởng phát biểu ý kiến này tại cuộc họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Tôi tôn trọng ý kiến chuyên môn và không có bình luận gì. Tôi cho rằng Thứ trưởng Nguyễn Hữu Chí nói có lý vì dựa vào những thông tin, cơ sở cụ thể của Bộ Tài chính. Đồng thời, cũng phù hợp với quy luật chung của thế giới về tương quan giữa ô nhiễm môi trường và phát triển kinh tế.

Mặt khác, với các cơ sở hoạt động xả thải ra môi trường, thì tùy theo điều kiện cụ thể, kinh phí bỏ ra đề xử lý ô nhiễm môi trường có thể chiếm từ 5 đến 25% tổng kinh phí đầu tư. Đây thật sự là một vấn đề với các làng nghề. Do đó, cần phân loại, lựa chọn hỗ trợ những làng nghề cần bảo tồn, phát triển, còn những loại hình công nghiệp mini cần cho vào các khu công nghiệp để nguồn lực quốc gia phần nào hỗ trợ được. Dĩ nhiên, cần có sự đóng góp chung. Tôi biết rằng ở Bắc Ninh đã có một dự án khoảng 80 tỷ đồng, xây dựng một khu để di dời các doanh nghiệp gây ô nhiễm vào đó. Tuy nhiên, khó khăn là nguồn vốn và một biện pháp hiện nay là huy động từ người dân các làng nghề và các doanh nghiệp (cả phù hợp và không phù hợp) để đóng góp vào đó.

Việc xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề không đơn giản, cần phải có sự chỉ đạo mạnh mẽ của cấp trên, sự năng động của UBND các cấp, sự ủng hộ của các tầng lớp nhân dân, các tổ chức chính trị – xã hội… thì mới có giải pháp căn cơ.

Ảnh Chinhphu.vn

MC: Thưa ông Vũ Quốc Tuấn, ông có nghĩ là đã đến lúc chúng ta cần nhìn nhận thẳng thắn vấn đề ô nhiễm làng nghề. Không thể chỉ vì tạo công ăn việc làm mà phải trả giá là gia tăng ô nhiễm môi trường làng nghề, khu công nghiệp?

Ông Vũ Quốc Tuấn: Xét về ô nhiễm môi trường làng nghề, tôi rất tán thành ý kiến của Thứ trưởng Bùi Cách Tuyến, chúng tôi đã đề nghị nên phân loại những nghề nào ô nhiễm môi trường nặng thì xử lý trước, những ngành nào ô nhiễm vừa phải thì xử lý sau.

Trước đây, VTV có đưa hình ảnh một vùng có nhiều cơ sở phá dỡ ô tô cũ để lấy xăng, dầu, bình ắc quy đem bán. Vùng này tồn tại hàng chục năm nay. Có phóng viên hỏi tôi, đấy là những làng nghề nào. Tôi nói, đấy không phải là làng nghề theo cách hiểu của chúng tôi. Đây chỉ là nghề, không phải là làng nghề. Tại sao những hộ như vậy để tồn tại hàng chục năm nay rồi, xã, huyện không quan tâm gì. Họ cho biết, cũng muốn di dời, nhưng quy hoạch không có đất.

Thứ 2, có một số vùng, làng mà chúng ta đã có dự án thực hiện tốt, nhưng sau khi kết thúc dự án rồi lại đâu hoàn đó do không có người tiếp tục khắc phục ô nhiễm tiếp theo, không có đủ vốn để duy trì. Đây cũng là do mô hình tăng trưởng của chúng ta đã chưa thực sự chú trọng vào yếu tố bền vững, vấn đề môi trường và hiện nay, chúng ta đã đặt vấn đề điều chỉnh mô hình tăng trưởng theo hướng bền vững.

Về mặt làng nghề, đã đến lúc không thể không tái cơ cấu làng nghề, từng doanh nghiệp của làng nghề. Tái cơ cấu có chính sách, tổ chức thực hiện, lực lượng thi hành. Nói về mặt luật pháp, xin đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường khi sửa đổi bổ sung Luật Bảo vệ môi trường quan tâm tới các điều khoản cụ thể hơn, khả thi hơn đối với môi trường làng nghề.

Thêm nữa, nhiều vấn đề về trách nhiệm bảo vệ môi trường chưa cụ thể, rõ ràng giữa một số bộ, ủy ban… Theo tôi, cần quy rõ hơn nữa về trách nhiệm kèm theo đó là vấn đề xử phạt nghiêm minh hơn.

Theo tôi, làng nghề quy mô còn nhỏ, vốn thấp, trình độ quản lý thấp nên cần hướng dẫn, trợ giúp, huy động mọi lực lượng để khắc phục môi trường là chủ yếu, còn xử phạt để răn đe, nhắc nhở là thứ yếu.

MC: Thưa Thứ trưởng, hiện nay rất nhiều địa phương có khu công nghiệp, nhưng đã có đoàn giám sát khách quan nào kiểm tra được các khu công nghiệp ấy đủ tiêu chuẩn về môi trường hay chưa? Vì trên thực tế rất nhiều khu công nghiệp lớn thậm chí còn không có trạm quan trắc không khí? Có khu công nghiệp đi vào hoạt động một thời gian thì bắt đầu cho ra sản phẩm là những cánh đồng chết, những dòng sông, dòng kênh chết.Vậy sao những khu công nghiệp ấy vẫn được hoạt động thưa ông?

Ông Vũ Quốc Tuấn – Ảnh Chinhphu.vn

Ông Bùi Cách Tuyến: Tình trạng khu công nghiệp gây ô nhiễm môi trường đã diễn ra trong nhiều năm, ở các mức độ, do nhiều nguyên nhân khác nhau. Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Thông tư 08 về bảo vệ môi trường trong các khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp và khu công nghệ cao. Thông tư nêu rõ, đến tháng 12/2010, các khu công nghiệp phải hình thành xong các hệ thống xử lý nước thải tập trung.

Việc thực hiện Thông tư này còn một số điểm khó khăn, thường hay gặp phải là khó khăn về vốn đầu tư. Thứ hai là tốc độ lấp đầy của khu công nghiệp đó, bởi nếu tỷ lệ lấp đầy không đạt mức nhất định thì nhà máy xử lý chất thải tập trung đó hoạt động không hết công suất, không đảm bảo chi phí hoạt động.

Tuy nhiên, cũng có nhiều mô hình tốt về vấn đề xử lý chất thải tập trung tại các khu công nghiệp như các khu công nghiệp lớn tại đồng bằng sông Hồng, Đông Nam bộ. Người ta đã thu gom tất cả chất thải của doanh nghiệp để xử lý. Nhưng có hiện tượng đáng lo là nhiều doanh nghiệp, nhà máy tiết kiệm chi phí nên đã đưa nước thải vào đường dẫn nước mưa, không đưa về hệ thống xử lý tập trung. Điều đó đòi hỏi sự kiểm tra chặt chẽ, do con người hoặc máy móc (tự động).

Thứ hai, cũng có một số trường hợp do thay đổi về cấu trúc hành chính. Ví dụ, trước đây, tỉnh Vĩnh Phúc có mời gọi các doanh nghiệp vào khu công nghiệp Quang Minh với điều kiện chỉ cần đóng mức phí ban đầu còn sau đó không phải chịu thêm phí tổn nào nữa. Tuy nhiên, khi khu công nghiệp này về Hà Nội, các nhà đầu tư hạ tầng, khi xây dựng nhà máy xử lý nước thải tập trung, yêu cầu các doanh nghiệp đóng tiền để xử lý nước thải. Vì thế, các doanh nghiệp không đóng và đưa nước thải vào hệ thống thoát nước mưa.

Trong 3 năm qua, chúng ta tiến hành thanh tra 1.622 cơ sở, đã phạt 40 tỷ đồng, truy thu 130 tỷ đồng. Kết quả đó không nhỏ nhưng vẫn còn gặp vướng mắc trong việc đóng cửa doanh nghiệp. Ví dụ, khi Chủ tịch UBND được Sở Tài nguyên và Môi trường đề nghị đóng cửa doanh nghiệp A thì các Sở khác có ý kiến như Sở Kế hoạch và Đầu tư thì trích dẫn Luật đầu tư, Sở Công Thương trích dẫn Luật Thương mại, còn Đơn vị Điện lực vì đưa ra Luật về điện lực, xem xét có cắt điện hay không. Các luật không đồng bộ, nên gặp vướng mắc trong việc giải quyết vấn đề này.

Tuy nhiên, bên cạnh khó khăn vướng mắc như vậy, nhiều địa phương thực hiện rất cương quyết, sẵn sàng đóng cửa doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng như Hải Dương, Phú Thọ, Tuyên Quang…

MC: Xin hỏi thêm Thứ trưởng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đưa ra thống kê đáng lo ngại: 95/200 khu chế xuất, khu công nghiệp chưa đầu tư hệ thống xử lý nước thải. Lỗi này do ai và phải quy trách nhiệm cho ai?

Ông Bùi Cách Tuyến: Luật Bảo vệ môi trường đã phân bổ trách nhiệm quản lý nhà nước về mặt môi trường ra 7, 8 bộ, ngành khác nhau. Trong bối cảnh đó, có những lĩnh vực bỏ trống về mặt quản lý, có lĩnh vực chồng lấn, gây khác biệt trong cảm nhận của nhân dân, nói chung, tất cả những gì liên quan tới môi trường họ đều quy kết về ngành Tài nguyên và Môi trường, cụ thể là Tổng cục Môi trường.

Nhưng trong phân bổ công việc, những việc đó làm ở những bộ, ngành khác nhau. Đây là vấn đề cũng liên quan đến phân công quản lý nhà nước về môi trường.

Thứ 2, nếu chúng ta nhìn vào thực tế, theo thống kê tới cuối tháng 6/2011, cả nước có 260 khu công nghiệp và trong đó có 173 khu công nghiệp đi vào hoạt động, trong đó 105 khu công nghiệp đã có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Như vậy, đạt 61% so với 36% của 2006. Chúng ta phải thừa nhận đây là sự tiến bộ trong hoàn cảnh nước ta- một nước đang phát triển.

Tuy nhiên, vấn đề là sự đồng bộ giữa 2 nỗ lực đó như thế nào. Trong ngành chúng tôi cũng có ví von, sự phát triển của lĩnh vực giải quyết ô nhiễm môi trường phát triển theo đường tuyến tính, sự phát triển của ô nhiễm đi theo hàm mũ. Trong đà phát tiển quá nhanh hiện nay, nếu không có biện pháp thật mạnh, căn cơ để giải quyết, chúng ta gặp khoảng cách đó.

Vừa qua, Thủ tướng có Chỉ thị 90, giao cho nhiều bộ, ngành đặc biệt Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu lại nhiều vấn đề liên quan tới mặt quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất để làm sao rõ trách nhiệm quản lý về mặt môi trường để cải thiện tình hình, đẩy nhanh quá trình xử lý, làm sạch môi trường…

MC: Thưa ông Nguyễn Văn Phương, xả chất thải độc hại thẳng vào nguồn nước, vào bầu không khí , làm ô nhiễm đất đai… Những hành vi giết chết thiên nhiên và giết dần mòn con người ấy liệu có được hình sự hóa không? Vì không thể để những hành vi nghiêm trọng như vậy xảy ra mà chỉ phạt cá nhân hoặc tổ chức bằng tiền được. Như thế, nghiễm nhiên người ta ý thức rằng có thể giải quyết vi phạm của mình bằng tiền một cách công khai?

Ông Nguyễn Văn Phương – Ảnh Chinhphu.vn

Ông Nguyễn Văn Phương: Nhiều nhà khoa học đã đề nghị quy định truy cứu trách nhiệm hình sự với cả các pháp nhân. Các hành vi gây tác động xấu tới môi trường của các pháp nhân, của các doanh nghiệp đã đến mức nghiêm trọng và có thể truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều quan trọng là khi sửa Bộ luật Hình sự, liệu rằng ý tưởng của các nhà khoa học có thuyết phục được các nhà làm luật hay không?

Theo quan điểm cá nhân, tôi cho rằng cũng là tốt khi hình sự hóa trách nhiệm với pháp nhân. Trách nhiệm hình sự là trách nhiệm nghiêm khắc nhất, tuy nhiên, trong thời gian này và trong thời gian tới, các hình thức xử lý hiện hành mà chúng ta làm nghiêm túc cũng đã có thể đạt được thành công. Tôi đồng ý với các vị khách mời rằng đúng là quy định còn nhiều vấn đề, nhưng ngay cả với những quy định đã rõ ràng, rành mạch, thì chính quyền địa phương có nơi cũng né tránh thực hiện. Tuy nhiên, chúng ta buộc phải chấp nhận và không thể “bán” môi trường để phát triển kinh tế. Môi trường dường như là câu chuyện công cộng và không ảnh hưởng tới ai, nhưng nhìn rộng ra thì tất cả đều bị ảnh hưởng. Vấn đề môi trường này còn do sự chưa đồng bộ hệ thống pháp luật. Có quy định địa phương ban hành chưa phù hợp với quy định của Trung ương.

Thứ hai, tôi ủng hộ quan điểm không nên để chính quyền địa phương có quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Một vấn đề nữa, đó là hệ thống các cơ quan địa phương quản lý vấn đề môi trường đang có sự phân tán. Tôi cho rằng, ngoài các văn bản do Quốc hội ban hành, tất cả các văn bản hướng dẫn cũng như hoạt động quản lý môi trường nên tập trung vào một đầu mối là Bộ Tài nguyên và Môi trường, dĩ nhiên là có sự tham khảo ý kiến của các cơ quan khác, các chuyên gia.

Bên cạnh đó, tôi ủng hộ quan điểm đề cao vai trò của cộng đồng dân cư. Trong trường hợp doanh nghiệp vi phạm và chính quyền vì một lý do nào đó không xử phạt, thì người dân phải có quyền phản ứng và buộc chính quyền thực hiện. Đã có nhiều vụ khi người dân phản ứng thì chính quyền vào cuộc rất nhanh chóng. Song nếu không có quy định để kiểm soát sự phản ứng này, nó có thể diễn ra theo hướng tiêu cực. Ngoài ra, người dân có thể phản ứng bằng việc tẩy chay hàng hóa, phản đối uy tín doanh nghiệp. Đây cũng là những cơ chế có hiệu quả, bên cạnh các giải pháp xử lý của pháp luật.

MC: Thưa Thứ trưởng, có 1 thực tiễn là các địa phương đang trải thảm đỏ mời các nhà đầu tư vào các khu công nghiệp và các làng nghề. Vậy địa phương có giám sát được ô nhiễm hay không? Tại sao rất nhiều vụ việc ô nhiễm nghiêm trọng đều do bên cơ quan công an phát hiện?

Ông Bùi Cách Tuyến: Việc các địa phương trải thảm đỏ mời các doanh nghiệp là đúng và cũng được khuyến khích. Tuy nhiên, cần có cách nhìn công bằng giữa 3 trục: xã hội, kinh tế và môi trường.

Theo Thông tư liên tịch 02 năm 2009 giữa Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ Công an, có tất cả các quy định về sự phối hợp công tác. Trong 3 năm qua, ngành môi trường đã thanh tra 1.622 cơ sở, luôn có sự hiện diện của Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường. Và trong mọi vụ việc mà Cục thụ lý đều có nhân lực của ngành môi trường từ Trung ương tới địa phương. Sở dĩ việc xuất hiện trên mặt báo của các doanh nghiệp vi phạm nhưng ngành môi trường không đưa ra là vì: Theo Nghị định 117 do ngành môi trường biên soạn và trình Chính phủ, điều 48 khoản về việc công khai thông tin với các doanh nghiệp vi phạm, chỉ rõ trường hợp nào, vi phạm điều nào khoản nào thì mới công khai trên website của địa phương, của Bộ, của Tổng cục, đăng liền 3 kỳ trên báo Tài nguyên và Môi trường, đưa thông tin ra các báo.

Chính vì vậy, nếu không có doanh nghiệp nào vi phạm tới mức độ đó thì chúng tôi không công khai. Điều này là để đảm bảo sự cân bằng giữa 3 yếu tố: kinh tế, xã hội và môi trường như đã nói, bởi với doanh nghiệp thì uy tín, tiếng tăm là rất quan trọng.

Cách tiếp cận của các biện pháp bảo vệ môi tường mang tính chất khuyên nhủ, răn đe và cuối cùng là hình sự và sử dụng biện pháp tăng nặng.

Ngoài ra, theo Luật Thanh tra, thì trong quá trình thanh tra không được công bố thông tin.

Còn những hoạt động của cảnh sát phòng chống tội phạm môi trường theo những tiêu chí khác, quy định khác. Bên ngành thanh tra, muốn thanh tra phải báo trước và phải được sự thỏa thuận của doanh nghiệp. Trong khi đó, bên công an có thể xâm nhập bất cứ lúc nào, thăm dò bằng nhiều biện pháp, bắt vi phạm quả tang theo quy định và nếu cần thì công bố ra báo chí theo mục tiêu. Thực ra, trong quá trình thanh tra, bên ngành môi trường đều thông tin cho bên công an về những thông tin cần thiết để họ sử dụng nghiệp vụ.

Đây chính là những lý do gây ra cảm quan trong xã hội là chỉ có cảnh sát môi trường mới phát hiện ra các vi phạm, còn bên ngành môi trường không làm gì. 1.622 cơ sở được thanh tra trong 3 năm không phải là nhỏ và sự phối hợp giữa 2 bên luôn diễn ra.

MC: Chúng ta đều biết vào năm 2010, kết quả khảo sát của Viện Khoa học và Công nghệ môi trường, Đại học Bách khoa Hà Nội đưa ra những con số khiến bất cứ ai cũng phải giật mình: 100% mẫu nước thải ở các làng nghề có thông số vượt quá tiêu chuẩn cho phép; nước mặt, nước ngầm đều có dấu hiệu ô nhiễm? Nhưng chẳng lẽ chúng ta cứ khảo sát rồi lại đưa ra con số năm này ô nhiễm cao hơn năm trước? Thứ trưởng có thể cho biết việc chi dùng quỹ bảo vệ môi trường được thực hiện thế nào? Liệu đã đem lại những kết quả thiết thực hay chưa?

Ông Bùi Cách Tuyến: Các lực lượng nghiên cứu cũng tiến hành nhiều đề tài nghiên cứu, nhưng số lượng làng nghề Việt Nam có tới 4.000-5.000, do vậy số lấy mẫu của Đại học Bách Khoa cũng có mức độ nhất định và tập trung vào những chỗ đáng nghiên cứu.

Hiện trạng đó diễn ra như vậy, chúng tôi cho rằng cần biện pháp tổng thể. Cách giải quyết là tổng hợp, nhiều hướng, cần thời gian nhất định. Còn sự tham gia của Quỹ bảo vệ môi trường, trong thời gian thành lập tới giờ, Quỹ đã cho vay 129 dự án với tổng kinh phí hơn 741 tỷ đồng, hơn 50% là các dự án xử lý chất thải. Có những dự án hỗ trợ hoàn toàn, có dự án tài trợ một phần như dành 500 triệu đồng tài trợ cho 10 dự án bên làng nghề Bát Tràng, gần 30 tỷ đồng giúp các dự án xử lý ô nhiễm môi trường của 5 tỉnh đồng bằng sông Hồng và miền núi phía Bắc, 1 dự án giúp 1 địa phương Đông Nam Bộ…

Chúng tôi hy vọng có thêm nguồn hỗ trợ của Chính phủ để tăng Quỹ, từ đó tập trung hỗ trợ tất cả các đối tượng xử lý ô nhiễm môi trường. Hiện chúng tôi cũng tích cực hợp tác với nhiều tổ chức quốc tế đặc biệt là Nhật Bản như JICA tăng cường nguồn vốn cho vay các doanh nghiệp với lãi suất thấp để xử lý ô nhiễm môi trường.

Ảnh Chinhphu.vn

MC: Đối với các làng nghề có thể nói việc sản xuất đồng bộ theo quy chuẩn là rất khó. Vì đa phần người dân chỉ chạy theo lợi nhuận trước mắt. Thưa ông Vũ Quốc Tuấn, việc tác động vào các nghệ nhân đứng đầu của làng nghề để thay đổi phương thức nghĩ, thói quen của cả một làng nghề có khả quan không?

Ông Vũ Quốc Tuấn: Tôi rất hoan nghênh Thứ trưởng trong vấn đề quỹ bảo vệ môi trường và trên thực tế quỹ đã giúp các làng nghề giải quyết nhiều vấn đề, như ở Bát Tràng. Tôi cũng hoan nghênh việc quỹ có thể mở rộng hơn và các tổ chức xã hội dân sự, các hội nghề nghiệp… tham gia thêm vào việc phân bổ quỹ hoặc giúp các làng nghề tiếp cận quỹ…

Thứ hai, tại các làng nghề chủ yếu là sản xuất hộ gia đình (tới 80%) nên việc sản xuất theo quy chuẩn cần có lộ trình. Hiệp hội làng nghề đang giúp các hộ gia đình nâng cao nhận thức rằng ô nhiễm môi trường còn ảnh hưởng rộng rãi, tới cả huyện, cả tỉnh, không thể coi là chuyện đã rồi thì đành thế. Hơn nữa, người mua hàng giờ đây cũng quan tâm hơn đến vấn đề ô nhiễm môi trường chứ không chỉ là giá cả và chất lượng.

Thứ ba, công nghệ sản xuất trong làng nghề cũng được cải tiến, giảm bớt tiêu hao năng lượng và ảnh hưởng môi trường. Nhiều vấn đề mà tự mỗi làng nghề có thể giải quyết được như thoát nước, thu gom rác… hoặc liên kết các làng giảm thiểu ô nhiễm. Tuy nhiên, vấn đề mà chúng tôi cho rằng rất quan trọng là xúc tiến xây dựng các khu, cụm làng nghề ô nhiễm nặng. Đây không phải là di chuyển ô nhiễm từ nơi này đến nơi khác, mà là tạo điều kiện để có thể xử lý ô nhiễm tập trung, hiệu quả hơn. Hiệp hội đã có tác động, nhưng sự hỗ trợ của Chính phủ rất quan trọng, vì việc xây dựng các khu tập trung với hệ thống xử lý rất tốn kém.

MC: Thưa Thứ trưởng, Luật Bảo vệ môi trường có quy định về phê duyệt đánh giá tác động môi trường các nhà máy. Hiện nay, có tình trang đơn vị sao chép báo cáo đánh giá tác động môi trường của nhau. Thứ trưởng nghĩ sao về vấn đề này?

Ông Bùi Cách Tuyến: Với nhiều nước trên thế giới, báo cáo đánh giá tác động môi trường là tài liệu dự báo hoàn chỉnh tất cả các khía cạnh tác động tới môi trường… Nhóm thực hiện báo cáo đánh giá tác động môi trường chịu sự ràng buộc bằng luật định.

Tại Việt Nam, việc làm các bản báo cáo chưa được chuyên nghiệp, do công tác đào tạo không theo kịp. Do vậy, khi xuất hiện những bản báo cáo đầu tiên, cái nào có giá trị thường được các đối tượng khác sao chép. Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng nhiều lần đề nghị thẩm định các cơ quan làm việc này, nhưng hiện chưa có đồng thuận. Rõ ràng, nếu chúng ta không giải quyết sẽ gây ra những hệ lụy rất khó xử.

Mục tiêu sắp tới, cần nâng cao chất lượng báo cáo đánh giá tác động môi trường. Vừa rồi Bộ đã trình Chính phủ ban hành Nghị định 29 là văn bản pháp luật toàn diện về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và cam kết bảo vệ môi trường, từ đó, giải quyết cơ bản những vấn đề chưa giải quyết được trong quá khứ. Hơn nữa, sau khi làm xong báo cáo, công tác hậu kiểm rất quan trọng.

Thời gian tới Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành quy định về kiểm soát ô nhiễm môi trường đối với các cơ sở đang hoạt động thay thế Thông tư 04 trước đây. Mặt khác, sau hậu thẩm là thanh tra, kiểm tra.

Và hàng đầu là cung cấp thông tin, tuyên truyền, giáo dục tới được tất cả các đối tượng trong xã hội.

MC: Mới đây một công ty nước giải khát tại Bình Dương đã khiến những ai đến thăm quan phải ngạc nhiên khi thấy những đàn cá vàng bơi lội tung tăng trong bể nước thải đã được qua xử lí đúng quy chuẩn. Hình ảnh này còn hiếm hoi tại các khu công nghiệp và làng nghề.

Chúng ta hãy hành động khi chưa quá muộn, hãy giành lại thiên nhiên từ những bàn tay vô ý thức của một số người. Chỉ cần các cấp, ngành quản lý sâu sát, chỉ cần mỗi cá nhân biết tôn trọng cuộc sống trong lành thì chúng ta tin rằng những dòng sông, những mảnh đất ô nhiễm sẽ lại hồi sinh.

Trân trọng cảm ơn sự theo dõi của quý vị khán giả. Xin trân trọng cảm ơn các vị khách mời.

Cổng TTĐT Chính phủ