Nội dung chính 5 chuyên đề quán triệt, học tập Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng
29/03/2021 08:22
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân và các đại biểu.
Chuyên đề 1: “Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng” do đồng chí Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương trình bày.
Đồng chí Nguyễn Xuân Thắng nêu rõ: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XII gắn với việc đánh giá 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) năm 2011, Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020; đồng thời đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2021-2025, xác định mục tiêu, phương hướng đến năm 2030 và tầm nhìn phát triển đất nước đến năm 2045.
Chủ đề của Đại hội là “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
So với chủ đề Đại hội XII, chủ đề Đại hội XIII có nhiều điểm mới: Bổ sung “chỉnh đốn” và “hệ thống chính trị” vào nội dung “tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh” để thành “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”; bổ sung “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí” và “kết hợp với sức mạnh thời đại” vào nội dung “phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc” để trở thành “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại…”; xác định rõ mục tiêu “phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”…
Truyền đạt tại Hội nghị, đồng chí Nguyễn Xuân Thắng nêu rõ 4 nội dung cốt lõi của chuyên đề “Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng”, bao gồm: Quá trình chuẩn bị báo cáo chính trị; tổng kết nhiệm kỳ Đại hội XII và nhìn lại 35 năm đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh; phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ Đại hội XIII và những năm tiếp theo; tổ chức thực hiện.
Nói về quá trình chuẩn bị báo cáo chính trị, đồng chí Nguyễn Xuân Thắng cho biết, việc chuẩn bị được tiến hành rất công phu, chu đáo, bài bản, qua nhiều lần, nhiều vòng, từng bước hoàn thiện, có nhiều đổi mới quan trọng về nội dung và phương pháp. Báo cáo chính trị là báo cáo trung tâm, quán triệt sâu sắc nguyên tắc kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn, giữa kiên định và đổi mới, giữa kế thừa và phát triển, trên cơ sở phát huy dân chủ rộng rãi.
Báo cáo chính trị và các văn kiện thực sự là sản phẩm kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, thể hiện rõ sự thống nhất giữa “ý Đảng, lòng dân”, hòa quyện cùng quyết tâm và ý chí phát triển của dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tinh thần xuyên suốt của báo cáo chính trị khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam; dân là gốc, nhân dân là trung tâm, là chủ thể, là cội nguồn sức mạnh trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đồng chí Nguyễn Xuân Thắng nêu rõ, những điểm mới, nổi bật trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII được thể hiện trong tổng kết, đánh giá; xác định hệ quan điểm chỉ đạo; xác định tầm nhìn, mục tiêu phát triển; xác định các định hướng, nhiệm vụ trọng tâm, đột phá phát triển.
Tổng kết nhiệm kỳ Đại hội XII và nhìn lại 35 năm đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh, đồng chí Nguyễn Xuân Thắng đã phân tích và làm rõ nhưng kết quả đã đạt được trên 4 mặt: Phát triển kinh tế-xã hội; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị; quốc phòng, an ninh đối ngoại; khống chế kiểm soát, ngăn chặn đại dịch Covid-19. Việc thực hiện Nghị quyết đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng; khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật- đồng chí Nguyễn Xuân Thắng nhấn mạnh.
Phân tích rõ các bài học kinh nghiệm, đồng chí Nguyễn Xuân Thắng cho biết, trong công tác xây dựng, chỉnh đốn phải được triển khai quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, thường xuyên; quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”. Bên cạnh đó, trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện phải có quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, năng động, sáng tạo, tích cực, có bước đi phù hợp; tập trung ưu tiên xây dựng đồng bộ thể chế phát triển; chủ động nghiên cứu, nắm bắt, dự báo đúng tình hình, không để bị động, bất ngờ.
Trên cơ sở phân tích, làm rõ tình hình thế giới, khu vực và trong nước, đồng chí Nguyễn Xuân Thắng nhấn mạnh tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ Đại hội XIII và những năm tiếp theo là kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Đồng chí Nguyễn Xuân Thắng đã phân tích 12 định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030; 6 nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ Đại hội XIII và 3 đột phá chiến lược. Từ đó, việc tổ chức thực hiện cần thể chế hóa, cụ thể hóa bằng các chương trình hành động cụ thể, từ trên xuống dưới, biến những quyết định của Đại hội thành những kết quả sinh động trong thực tế.
Theo kế hoạch, chiều 27/3, đồng chí Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương truyền đạt chuyên đề “Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng”./.
Chuyên đề 2: “Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng” do đồng chí Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương trình bày.
Chuyên đề “Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng” gồm có 2 phần lớn: Tổng kết công tác xây dựng Đảng nhiệm kỳ Đại hội XII và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp nhiệm kỳ Đại hội XIII; tổng kết thi hành Điều lệ Đảng nhiệm kỳ Đại hội XII.
Phân tích bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và trong nước, đồng chí Phạm Minh Chính khẳng định: “Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được Trung ương và cấp ủy, tổ chức đảng các cấp đặc biệt coi trọng, triển khai thực hiện toàn diện, đồng bộ với quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm và đạt được nhiều kết quả cụ thể, rõ rệt, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng”.
Thông tin những vấn đề mới về xây dựng Đảng đặt ra ở Văn kiện Đại hội XII, đồng chí Phạm Minh Chính cho biết, cùng với việc đề ra 10 nhóm nhiệm vụ, giải pháp, Đại hội xác định 6 nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ, trong đó 2 nhiệm vụ trọng tâm về công tác xây dựng Đảng. Cụ thể, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Cùng với đó, xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã được Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy, tổ chức đảng đặc biệt chú trọng, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện toàn diện, đồng bộ các nội dung của công tác xây dựng Đảng, với quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, có trọng tâm, trọng điểm, hành động quyết liệt và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Nhiều vấn đề khó, phức tạp đã được đặt ra và thực hiện từ nhiều năm trước nhưng hiệu quả thấp, chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra, nay đạt được những kết quả rõ rệt.
Đồng chí Phạm Minh Chính cho biết, công tác xây dựng Đảng về chính trị, đạo đức được đặc biệt chú trọng; xây dựng Đảng về tư tưởng tiếp tục được tăng cường, tiến hành đồng bộ và có chuyển biến tích cực, góp phần nâng cao nhận thức, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội. Việc đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy, tinh gọn đầu mối, tinh giản biên chế của hệ thống chính trị được triển khai thực hiện quyết liệt ở các cấp với quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm và đạt được nhiều kết quả quan trọng, rõ nét; bước đầu khắc phục được một số hạn chế, khuyết điểm đã tồn tại trong thời gian dài.
Bên cạnh đó, công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ có nhiều đổi mới, được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện toàn diện, đồng bộ trong cả nhiệm kỳ. Đội ngũ cán bộ ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được tăng cường, có nhiều đổi mới và đạt được kết quả quan trọng. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí được lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, toàn diện, có bước đột phá và đạt nhiều kết quả cụ thể, rõ rệt. Nhiều vụ việc phức tạp, tồn đọng, kéo dài, dư luận quan tâm đã được xem xét, kết luận và xử lý nghiêm minh, đúng quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Theo đồng chí Phạm Minh Chính, công tác dân vận được chú trọng và tiếp tục đổi mới, chất lượng, hiệu quả được nâng lên, nhất là dân vận chính quyền; quan điểm “dân là gốc”, là chủ thể của công cuộc đổi mới được tăng cường về nhận thức và thực hiện đầy đủ, sâu sắc hơn. Mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân được củng cố, tăng cường. Phương thức lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đổi mới, năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng được nâng lên; quán triệt và vận dụng sáng tạo, hiệu quả 5 phương thức lãnh đạo của Đảng (Ban hành đường lối, chủ trương, nghị quyết; tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục; công tác tổ chức, cán bộ; công tác kiểm tra, giám sát; sự gương mẫu của đảng viên).
Trên cơ sở nhìn lại 35 năm đổi mới, nhất là 5 năm thực hiện công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong nhiệm kỳ, Đại hội XIII đã khẳng định “Kết quả công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng các nhiệm kỳ qua và nhiệm kỳ Đại hội XII đã góp phần rất quan trọng để đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay; làm cho Đảng ta đoàn kết, thống nhất và trong sạch, vững mạnh hơn; niềm tin của nhân dân đối với Đảng được củng cố, tăng cường hơn, tạo nền tảng vững chắc đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững trong những năm tới”.
* 5 bài học kinh nghiệm
Trên cơ sở phân tích một số hạn chế, khuyết điểm cần khắc phục, đồng chí Phạm Minh Chính nhấn mạnh 5 bài học kinh nghiệm: Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện nghiêm các nguyên tắc của Đảng; kịp thời tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận để đổi mới sáng tạo, chống bảo thủ, trì trệ và những biểu hiện cơ hội chính trị. Bên cạnh đó, đồng chí Phạm Minh Chính nhấn mạnh việc coi trọng sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, trước hết trong Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, lãnh đạo chủ chốt và cấp ủy các cấp. Người đứng đầu các cấp phải thực sự gương mẫu, nói đi đôi với làm; thường xuyên tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân, phát huy vai trò của nhân dân và dựa vào dân để xây dựng Đảng.
Đồng chí Phạm Minh Chính nêu rõ cần thấm nhuần sâu sắc quan điểm công tác cán bộ là “then chốt” của công tác xây dựng Đảng, “then chốt” của nhiệm vụ “then chốt”, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Vì vậy, phải đặc biệt coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu thật sự có đức, có tài, có uy tín trong Đảng và nhân dân. Cùng với đó, công tác xây dựng Đảng phải gắn kết chặt chẽ với lãnh đạo phát triển kinh tế – xã hội, phát triển văn hóa, con người Việt Nam, bảo đảm quốc phòng, an ninh và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa xây dựng và chỉnh đốn Đảng; đồng thời, xác định đúng trọng tâm, trọng điểm và khâu đột phá.
Trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện phải có quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm và có bước đi phù hợp. Trước những vấn đề khó, phức tạp, nhạy cảm càng phải giữ vững nguyên tắc, thực hiện nhất quán, phát huy dân chủ, huy động trí tuệ tập thể; cầu thị, khiêm tốn, lắng nghe và đặt sự nghiệp chung của Đảng, lợi ích của quốc gia, dân tộc và nhân dân lên trên hết, trước hết.
*Đặc biệt chú trọng công tác xây dựng Đảng
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đặc biệt chú trọng công tác xây dựng Đảng và chỉ rõ: “Trong những năm tới, phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”.
Nhiệm vụ trọng tâm thứ nhất về xây dựng Đảng gồm 6 nội dung quan trọng: Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị toàn diện, trong sạch, vững mạnh; Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; Xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm”, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; Xây dựng đội ngũ đảng viên và cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; Củng cố lòng tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện phương hướng và nhiệm vụ trọng tâm thứ nhất, Đại hội XIII đã đề ra 10 nhóm nhiệm vụ, giải pháp, trong đó xác định 3 nhiệm vụ trọng tâm, 3 giải pháp đột phá về công tác xây dựng Đảng để thực hiện.
Trưởng Ban Tổ chức Trung ương đã phân tích một số nội dung cốt lõi và điểm mới của nội dung tăng cường xây dựng Đảng về chính trị; coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng, tập trung xây dựng Đảng về đạo đức; tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị; củng cố, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên.
Bên cạnh đó, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương nêu rõ tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu “đoàn kết, trung thành, trung thực, trong sáng, gương mẫu, tinh thông, chuyên nghiệp”; đổi mới mạnh mẽ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới.
Cùng với việc thực hiện toàn diện, đồng bộ các nhóm nhiệm vụ, giải pháp nêu trên, đồng chí Phạm Minh Chính chỉ rõ ba nhiệm vụ trọng tâm và ba giải pháp đột phá. Ba nhiệm vụ trọng tâm gồm: Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ gắn với đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và thực hiện các quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ đảng viên; đổi mới mạnh mẽ và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu các cấp đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; tiếp tục đổi mới, kiện toàn và từng bước hoàn thiện tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động gắn với nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
Ba giải pháp đột phá: Tiếp tục hoàn thiện thể chế về công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, nhất là công tác tổ chức, cán bộ; phát huy dân chủ, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với tạo môi trường đổi mới sáng tạo trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ; kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, quan liêu, đồng thời đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đi đôi với tăng cường kiểm tra, giám sát và kiểm soát chặt chẽ quyền lực.
Phân tích tổng kết thi hành Điều lệ Đảng nhiệm kỳ Đại hội XII, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương cho biết, ngay sau Đại hội XII của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Quy định số 29-QĐ/TW về thi hành Điều lệ Đảng; Quy định số 30-QĐ/TW về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng. Ban Bí thư đã ban hành Hướng dẫn số 01-HD/TW về một số vấn đề cụ thể thi hành Điều lệ Đảng để thực hiện. Việc thi hành Điều lệ Đảng đã được các cấp ủy, tổ chức đảng triển khai thực hiện nghiêm túc và đạt được những kết quả toàn diện.
Nội dung các quy định của Điều lệ Đảng đã bao quát, điều chỉnh đầy đủ toàn diện về tổ chức và hoạt động của Đảng: Về đảng viên; nguyên tắc tổ chức và cơ cấu tổ chức của Đảng; cơ quan lãnh đạo của Đảng ở Trung ương và địa phương; tổ chức cơ sở đảng; tổ chức đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam; công tác kiểm tra, giám sát của Đảng và ủy ban kiểm tra các cấp; khen thưởng và kỷ luật; Đảng lãnh đạo Nhà nước; Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội; Đảng lãnh đạo Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; tài chính của Đảng cơ bản phù hợp tình hình thực tế.
Sau Đại hội XII, Trung ương đã sớm bổ sung, sửa đổi Quy định thi hành Điều lệ Đảng. Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành các quy định, hướng dẫn tương đối đồng bộ, thống nhất để thực hiện trong toàn Đảng. Các cơ quan lãnh đạo của Đảng ở Trung ương và địa phương cơ bản đã thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định, đồng thời, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thi hành Điều lệ Đảng.
Việc thi hành nghiêm túc các quy định của Điều lệ Đảng đã bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội; khẳng định sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội và Công an; phát huy vai trò nòng cốt của lực lượng vũ trang trong bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội.
Chuyên đề 3: “Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm giai đoạn 2021-2030; phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm giai đoạn 2021-2025” do Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trình bày.
Bên cạnh việc đánh giá tình hình thực hiện Chiến lược 10 năm (2011-2020) và phương hướng thực hiện nhiệm vụ kinh tế – xã hội 5 năm vừa qua, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã tóm lược các nội dung trọng tâm chiến lược 10 năm (2021-2030) và phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm (2021-2025), cùng với đó là công tác tổ chức thực hiện.
Trong phần đánh giá về kết quả thực hiện Chiến lược 10 năm (2011-2020) và phương hướng thực hiện nhiệm vụ kinh tế – xã hội 5 năm vừa qua, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho rằng, cần trả lời câu hỏi chúng ta đang ở đâu trong quá trình phát triển?
Đánh giá chung về kết quả đạt được, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho rằng, đất nước ta đã đạt nhiều thành tựu quan trọng và khá toàn diện trên mọi lĩnh vực. Thành quả đó góp phần tô đậm thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của 35 năm đổi mới, làm cho đất nước ta chưa bao giờ có được tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.
Theo đó, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nêu những thành tựu quan trọng của đất nước 10 năm qua, nhất là 5 năm qua và khẳng định, kết quả đó đạt được không phải là của một nhiệm kỳ cụ thể mà là dưới sự lãnh đạo của Đảng, kết quả đó là sự tích lũy của nhiều nhiệm kỳ, của nhiều thế hệ mọi tầng lớp nhân dân. Kết quả đó có ý nghĩa hơn khi bắt đầu thực hiện chiến lược 10 năm và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm qua, đất nước ta gặp nhiều khó khăn lớn hơn dự báo.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho rằng trước tình hình quốc tế và trong nước có nhiều diễn biến khó lường, 10 năm qua và nhiều 5 năm vừa qua, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn kết chung sức đồng lòng, nỗ lực vượt bậc, không chỉ là phương châm hành động, đây là bài học kinh nghiệm cho sự thành công. Đoàn kết hệ thống chính trị, đoàn kết các nhánh quyền lực dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhờ đoàn kết mà niềm tin nhân dân, và các kết quả cụ thể của nhân dân thì niềm tin vào Đảng và Nhà nước chúng ta hết sức mạnh mẽ. Từ quyết tâm đoàn kết ấy chúng ta đưa ra giải pháp ứng phó linh hoạt, hiệu quả, với những biến động tình hình trong nước, quốc tế kịp thời, nhờ đó đạt thành tựu quan trọng.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh đến sự toàn diện từ tinh thần đoàn kết hoàn dân tộc, nhờ đó, đời sống vật chất tinh thần của người dân Việt Nam được nâng lên rõ nét, đặc biệt niềm tin người dân vào chế độ nâng lên, uy tín quốc tế nâng cao, nền tảng phát triển đất nước cho thời gian đến đã được chuẩn bị và khẳng định. Việt Nam là một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới với mục tiêu kép.
Theo đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 10 năm qua đạt 5,95%. Năm 2020 mặc dù gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 nhưng vẫn tăng trưởng 2,91%, là điểm sáng trên toàn cầu trong thực hiện thành công mục tiêu kép. Đặc biệt, chất lượng tăng trưởng được cải thiện với đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đạt 33,6% giai đoạn 2011-2015 và tăng lên 45,7% giai đoạn vừa qua. Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn 2016-2020 đạt 5,9%, cao hơn mức 5 năm trước đó ở mức 4,3%.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng đặt vấn đề, Việt Nam đã có quy mô GDP 343 tỷ USD, đứng 37 thế giới (từ xếp hạng thứ 55 đầu nhiệm kỳ), một trong 16 nền kinh tế mới nổi. Việt Nam nằm trong top 10 quốc gia tăng trưởng nhất thế giới. Việt Nam cũng là nước có độ mở kinh tế cao, tổng kim ngạch thương mại bằng 200% GDP.
Như vậy Việt Nam đã có thứ hạng nhất định trên thế giới. Thủ tướng cũng đặt vấn đề, GDP bình quân đầu người nước ta đứng thứ 4 ASEAN. Riêng 5 năm qua, nước đã tạo ra 1.300 tỷ USD, giải quyết được 8 triệu việc làm là cố gắng rất lớn.
Từ những kết quả đạt được đó, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nêu rõ, các định chế tài chính lớn từ Quỹ tiền tệ thế giới, Ngân hàng thế giới rồi các tổ chức xếp hạng tên tuổi thế giới đều đánh giá cao thành tựu của Việt Nam. Nhưng quan trọng nhất nhân dân Việt Nam quyết tâm khát vọng làm được việc lớn hơn để xứng danh một đất nước Việt Nam ngàn năm văn hiến, đoàn kết quyết tâm dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trên cơ sở đó, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng đề cập đến yêu cầu khắc phục cho được những tồn tại bất cập cả trong dài hạn cũng như trong trung hạn.
Để tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ thời gian tới, bên cạnh những tồn tại, hạn chế của nhiệm kỳ qua, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nêu 5 bài học quan trọng trong giai đoạn 10 năm vừa qua. Trong đó bài học đầu tiên chính là bảo đảm mối tương quan hợp lý, hài hòa giữa tăng trưởng và ổn định; kiên trì ổn định vĩ mô, khắc phục nguy cơ tụt hậu; giải quyết các mối quan hệ trọng tâm về kinh tế.
Đặc biệt, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh đến yêu cầu phải thực sự coi trọng phát triển văn hoá, xã hội và con người tương xứng với phát triển kinh tế. Coi giáo dục -đào tạo, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là nền tảng quan trọng, động lực chủ yếu cho phát triển đất nước; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân.
“Sự đồng lòng, chung sức của nhân dân, phát huy tối đa các nguồn lực trong phát triển đất nước trên tinh thần đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là tất cả, không đoàn kết mất tất cả. Không phải chỉ xây dựng Đảng, mà cả kinh tế – xã hội, kể cả phát triển địa phương và ngành. Mọi việc bất thành khi chúng ta không đoàn kết nhất trí. Tôi nói bài học này để cả cấp ủy chính quyền các cấp của chúng ta”, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nói.
Về nội dung Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm và phương hướng, nhiệm vụ 5 năm tới, Thủ tướng nêu rõ, chủ đề chất lượng là yếu tố hết sức quan trọng. Đó là: Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa, con người Việt Nam và sức mạnh thời đại, huy động mọi nguồn lực phát triển nhanh và bền vững trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; phấn đấu đến năm 2030 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Theo đó, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nêu ba thành tố trọng tâm của chủ đề chiến lược. Cụ thể, các thành tố trọng tâm của chiến lược được xác định đầu tiên là động lực tinh thần và sự quyết tâm. Phải khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa con người Việt Nam và sức mạnh của thời đại. Khát vọng đó phải đến từng người dân và cơ sở thì mới thành công. Thành tố thứ hai là cách thức, phương tiện chủ yếu, đó là huy động mọi nguồn lực phát triển nhanh và bền vững trên cơ sở khoa học công nghệ đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Thứ ba là mục tiêu phấn đấu: Phấn đấu đến 2030, Việt Nam là nước đang phát triển công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến 2045 trở thành nước phát triển thu nhập cao.
“Đây là mục tiêu lớn, trách nhiệm cao. Ta không phấn đấu mục tiêu này đất nước lạc hậu. Nếu chúng ta có chủ trương, biện pháp tốt có tính khả thi cao những mục tiêu này là có cơ sở khoa học”, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nói.
Theo đó, những mục tiêu cơ bản đến năm 2030 (kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng), Việt Nam là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, 7.500 USD một người và xác định cả tầm nhìn đến năm 2045 (kỷ niệm 100 năm thành lập nước) trở thành nước phát triển, thu nhập cao, 18.000USD một người. Trong 5 năm tới (2021 – 2025), Việt Nam xác định tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân đạt khoảng 6,5 – 7%/năm.
Chuyên đề 4: “Những nhận thức mới và tư duy mới về quốc phòng Việt Nam” do Thượng tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Tổng Tham mưu trưởng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng trình bày
* Bảo vệ đất nước, giữ nước từ sớm, từ xa
Thượng tướng Phan Văn Giang, nhấn mạnh, quốc phòng là công cuộc giữ nước bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng, lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt, bảo vệ đất nước, giữ nước từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy; sẵn sàng đánh thắng mọi hình thái chiến tranh xâm lược nếu xảy ra.
Chuyên đề “Những nhận thức mới và tư duy mới về quốc phòng Việt Nam” gồm 2 phần: Tính tất yếu về nhận thức mới và tư duy mới về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; nhận thức mới và tư duy mới về quốc phòng Việt Nam. Phân tích bối cảnh quốc tế và khu vực, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng cho biết, trong những năm tới, dự báo môi trường chính trị, an ninh thế giới, khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó dự báo. Các nước điều chỉnh chiến lược và phương thức phát triển nhằm thích ứng với tình hình mới. Chủ nghĩa dân túy, dân tộc cực đoan, thực dụng, cường quyền nước lớn trong quan hệ quốc tế gia tăng; tranh chấp chủ quyền lãnh thổ giữa các quốc gia.
Cùng với đó, Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghiệp số phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, trong đó có cả lĩnh vực quốc phòng, tạo ra cả thời cơ, thách thức đối với mọi quốc gia, dân tộc. Nhiều hình thái chiến tranh mới xuất hiện, sự ra đời của chiến tranh mạng, các yếu tố an ninh phi truyền thống, nhất là khủng bố, thiên tai, dịch bệnh… tiếp diễn phức tạp.
Khu vực châu Á – Thái Bình Dương, trong đó Đông Nam Á, có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng, là khu vực cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc, tiềm ẩn nhiều bất ổn. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, trên biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn. Hòa bình, ổn định, tự do an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên Biển Đông đứng trước những thách thức lớn, tiềm ẩn nguy cơ có khả năng xung đột.
Về tình hình trong nước, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng cho biết, sau 35 năm đổi mới, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, niềm tin của nhân dân với Đảng, chế độ ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, sự nghiệp cách mạng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng gặp không ít những khó khăn, thách thức đặt ra đối với quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân đạt được những kết quả quan trọng nhưng vẫn đứng trước những khó khăn, thách thức. Những vấn đề phức tạp về quốc phòng ngày càng công khai, quyết liệt và trực diện.
“Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác. Bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa, xâm phạm độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia – dân tộc Việt Nam đều là đối tượng của nước ta”, Thượng tướng Phan Văn Giang nói.
* Bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ “trọng yếu, thường xuyên”
Thông tin về nhận thức mới và tư duy mới về quốc phòng Việt Nam, Thượng tướng Phan Văn Giang nêu rõ, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; sức mạnh tổng hợp của đất nước cả về chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, lực lượng vũ trang làm nòng cốt.
Thứ trưởng Bộ Quốc phòng nhấn mạnh, đây là quan điểm, chủ trương thể hiện sâu sắc sự phát triển tư duy mới của Ðảng đối với nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, là định hướng chiến lược để toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân tập trung triển khai thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
Đại hội XIII của Đảng xác định, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ “trọng yếu, thường xuyên”, là cơ sở tiền đề tạo điều kiện thuận lợi cho nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế; kinh tế phát triển, đất nước mạnh lên sẽ là “phương thức hữu hiệu” để bảo vệ Tổ quốc. Đây là quan điểm lý luận cơ bản, chi phối, quy định toàn bộ các nội dung về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Phân tích nền quốc phòng toàn dân, Thượng tướng Phan Văn Giang cho biết, đây là sức mạnh quốc phòng của đất nước, được xây dựng trên nền tảng chính trị, tinh thần, nhân lực, vật lực, tài chính, mang tính chất toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự cường; bao gồm: Xây dựng tiềm lực quốc phòng, lực lượng quốc phòng, thế trận quốc phòng toàn dân.
Theo đó, việc tăng cường tiềm lực quốc phòng là một trong những đột phá về tư duy và tổ chức thực hiện xây dựng nền quốc phòng toàn dân của Đảng, nhằm tạo ra nguồn lực tổng hợp tốt nhất cho nhiệm vụ quốc phòng trong bối cảnh đất nước đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Cùng với đó, quân đội nhân dân là lực lượng nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, bao gồm lực lượng thường trực và lực lượng dự bị động viên. Quân đội nhân dân đã được Đảng và Bác Hồ xác định, quân đội ta là quân đội cách mạng, “đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất”. Chức năng cơ bản đó đã được khẳng định và phát huy hơn 75 năm qua.
Đại hội XIII của Đảng xác định phương hướng, mục tiêu xây dựng quân đội: “Xây dựng Quân đội nhân dân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh. Đến năm 2030 xây dựng một số quân chủng, binh chủng, lực lượng hiện đại. Phấn đấu từ năm 2030 xây dựng quân đội nhân dân hiện đại; vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quân đội tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân; kiên định mục tiêu lý tưởng của Đảng, bảo đảm chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong mọi tình huống”.
Theo Thượng tướng Phan Văn Giang, thế trận quốc phòng toàn dân là tổ chức, triển khai, bố trí lực lượng và tiềm lực quốc phòng trên toàn bộ lãnh thổ theo ý định chiến lược thống nhất, bảo đảm đối phó thắng lợi với mọi âm mưu và hoạt động của các thế lực thù địch xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia – dân tộc, sẵn sàng chuyển thành thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, gồm: Xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc; kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế – xã hội và kinh tế – xã hội với quốc phòng, an ninh; xây dựng khu vực phòng thủ quân khu vững mạnh toàn diện, hợp thành hệ thống phòng thủ đất nước; xây dựng các tỉnh, thành phố thành khu vực phòng thủ vững chắc; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân.
Nhấn mạnh nhiệm vụ nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng nhằm tranh thủ mọi tiềm lực xây dựng quốc phòng, đồng chí Thứ trưởng Bộ Quốc phòng cho biết, đối ngoại quốc phòng là nội dung quan trọng đối với nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân nhằm phát huy sức mạnh dân tộc, sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp, tạo nền tảng vững chắc để thực hiện kế sách bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Công tác đối ngoại quốc phòng trở thành một trong những trụ cột đối ngoại của Đảng, ngoại giao của Nhà nước và đối ngoại nhân dân.
“Những nhận thức và tư duy mới về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng là những chủ trương lớn, đúng đắn, có ý nghĩa chiến lược; là kết quả của việc tổng kết sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng về củng cố, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc”, đồng chí Thứ trưởng Bộ Quốc phòng nêu.
Thượng tướng Phan Văn Giang nêu rõ, quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện thắng lợi những chủ trương, quan điểm của Đảng về nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; nhằm thực hiện kế sách giữ nước từ sớm, từ xa; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc; bảo vệ nền hòa bình bền vững của đất nước; bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân; tích cực tham gia bảo vệ hòa bình ổn định trong khu vực và trên thế giới; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước.
Chuyên đề 5: “Những nhận thức mới và tư duy mới về an ninh quốc gia” do đồng chí Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an trình bày.
* Hiểu toàn diện vấn đề an ninh quốc gia
Chuyên đề “Những nhận thức mới và tư duy mới về an ninh quốc gia” gồm 2 phần chính: Những điểm mới trong nhận thức, tư duy về an ninh quốc gia; những vấn đề mới về chủ trương, giải pháp trong bảo vệ an ninh quốc gia.
Về những điểm mới trong nhận thức, tư duy về an ninh quốc gia, Bộ trưởng Bộ Công an cho biết, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng ngày nay, Đại hội XIII của Đảng đã xác định, vấn đề an ninh quốc gia cần được hiểu một cách toàn diện hơn, rộng hơn, sâu hơn, không chỉ có các vấn đề an ninh chính trị, quân sự truyền thống mà còn bao quát vấn đề an ninh phi truyền thống, thậm chí cần bàn đến “an ninh chính quyền”, “an ninh chế độ”…
Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về các văn kiện trình Đại hội XIII lần đầu tiên xác định “an ninh con người”, bảo vệ “an ninh con người”, đặt nhân tố con người, an ninh con người làm trung tâm của mọi hoạt động. Bảo vệ an ninh con người vừa là mục tiêu phấn đấu, vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn định chính trị xã hội và xây dựng, phát triển đất nước trường tồn, thịnh vượng.
Bộ trưởng Bộ Công an nhấn mạnh, an ninh con người là trạng thái người dân được sống ổn định, an toàn, không bị đe dọa bởi các nguy cơ xâm hại; bảo vệ an ninh con người là bảo đảm và thực thi đầy đủ các quyền con người, quyền cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp năm 2013, bảo đảm mọi người dân được sống ấm no, tự do, hạnh phúc trong một môi trường xã hội trật tự, kỷ cương, an ninh, an toàn, lành mạnh.
* Giữ vững an ninh quốc gia vừa là mục tiêu, giải pháp để phát triển bền vững đất nước
Phân tích những vấn đề mới về chủ trương, giải pháp trong bảo vệ an ninh quốc gia, Bộ trưởng Bộ Công an nêu “Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia” phải được xem như một bộ phận quan trọng của “Chiến lược phát triển quốc gia”, nằm trong tổng thể của “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc”. Trong sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng chặt chẽ giữa các quốc gia, cùng với những diễn biến phức tạp của nhiều vấn đề mang tính toàn cầu đã làm nảy sinh những nguy cơ chung đe dọa an ninh của tất cả các quốc gia trên thế giới, làm phát sinh những nội dung mới trong bảo vệ an ninh quốc gia.
Theo Bộ trưởng Bộ Công an, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng phát triển nhận thức, tư duy mới về bảo vệ an ninh quốc gia trên 10 nội hàm: Tầm nhìn; mục tiêu; quan điểm; phương hướng; phạm vi bảo vệ Tổ quốc; bảo vệ an ninh quốc gia; kế sách bảo vệ an ninh quốc gia; phát triển tư duy về tiềm lực quốc phòng, an ninh; phát triển tư duy về kết hợp giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại; tư duy về xây dựng lực lượng Công an nhân dân; tư duy mới về nghiên cứu, phát triển lý luận an ninh.
Cụ thể, Đại hội XIII lần đầu tiên đưa ra tầm nhìn chiến lược phát triển đất nước đến năm 2030 – “nước ta là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao” và đến năm 2045 – “nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao”; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là tầm nhìn mới và xa hơn của Đảng so với Đại hội XII, trong đó có định hướng về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh đến năm 2030.
Bộ trưởng Bộ Công an nêu rõ mục tiêu bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh.
Để thực hiện được mục tiêu và tầm nhìn đã được Đảng nêu ra, Đại hội XIII xác định 5 quan điểm chỉ đạo đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải quán triệt trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Trong đó có quan điểm: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi… kế thừa nội dung “Bảo đảm lợi ích quốc gia – dân tộc” đã được Đảng nêu ở các kỳ Đại hội trước. Đại hội XIII đã nhấn mạnh “bảo đảm cao nhất” để thống nhất trong tư duy nhận thức và hành động của các cấp, ngành trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia.
Trong nội dung phương hướng phát triển đất nước đến năm 2030, Đại hội XIII xác định phương hướng nhiệm vụ quốc phòng, an ninh “kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương. Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố, nguy cơ gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị”.
Bộ trưởng Bộ Công an cho biết, điều này khẳng định tư duy và định hướng xa hơn trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, trong đó cũng nhấn mạnh nội dung “an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương” cho phù hợp với bối cảnh hiện nay. Đó là, coi việc giữ vững an ninh quốc gia vừa là mục tiêu, giải pháp để phát triển bền vững đất nước; đồng thời thể hiện tư tưởng chỉ đạo phát triển để giữ vững an ninh, an ninh để phát triển, an ninh trong phát triển.
Về phạm vi bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia, Bộ trưởng Tô Lâm nhấn mạnh, Đại hội XIII phát triển tư duy mới về phạm vi bảo vệ an ninh quốc gia không chỉ giới hạn trong phạm vi biên giới hành chính quốc gia, mà cần phải mở rộng nhằm bảo vệ lợi ích, an ninh quốc gia ở cả bên ngoài biên giới hành chính quốc gia.
Văn kiện Đại hội XIII bên cạnh việc tiếp tục khẳng định vấn đề: “Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa”; đồng thời nhấn mạnh: “Xác định chủ động phòng ngừa là chính”. Đại hội XIII đã xác định phương hướng “Chủ động chuẩn bị về mọi mặt, sẵn sàng các phương án giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội trong mọi tình huống”.
* Đến năm 2030, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại
Văn kiện Đại hội XIII đã nêu phát triển tư duy về tiềm lực quốc phòng, an ninh một cách đầy đủ, rõ nét, toàn diện hơn, “tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh, xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân; xây dựng, củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân”. Đồng thời, tiếp tục kế thừa và phát triển tư duy về nguồn lực quốc phòng, an ninh trong văn kiện Đại hội XII với phương châm: “Chỉ huy tại chỗ, lực lượng tại chỗ, phương tiện tại chỗ và hậu cần tại chỗ”, “Phát huy sức mạnh và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, toàn dân, sự phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ giữa các lực lượng”. Văn kiện Đại hội XIII cụ thể hóa, bổ sung và phát triển đó là: “Có cơ chế huy động nguồn lực từ địa phương và nguồn lực xã hội cho xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh…”. Đây là thể hiện tư duy mới tạo ra cơ chế mở để phát huy cao nhất các nguồn lực xã hội nhằm xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh vững mạnh hơn trong bối cảnh hiện nay.
Trên cơ sở tổng kết 35 năm đổi mới đất nước, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, 10 năm thực hiện Cương lĩnh (sửa đổi, bổ sung năm 2011) và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, Bộ trưởng cho biết, văn kiện Đại hội XIII đã phát triển toàn diện nhận thức của Đảng ta về mối quan hệ giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế – xã hội, đối ngoại.
Đại hội XIII khẳng định: “Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại. Cụ thể hóa và thực hiện có hiệu quả quan hệ giữa nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc; trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; trong từng địa phương, vùng, địa bàn chiến lược và trong từng nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch cụ thể”.
Phân tích vấn đề tư duy về xây dựng lực lượng Công an nhân dân, Bộ trưởng Bộ Công an cho biết, Đại hội XIII đã định hướng: “Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, tạo tiền đề vững chắc phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”.
So với Đại hội XII, Đảng ta xác định chuyển từ trạng thái “từng bước hiện đại” sang “một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại”; đồng thời xác định mục tiêu phấn đấu “đến năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”. Bộ trưởng Tô Lâm cho biết, đây là tư duy rất mới trong việc định hướng xây dựng lực lượng Công an nhân dân phù hợp với xu thế, yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia cũng như tiềm lực của đất nước hiện nay. Đại hội XIII xác định: “Quan tâm xây dựng lực lượng bảo đảm trật tự, an toàn xã hội cơ sở đủ mạnh, đáp ứng đòi hỏi nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự ở cơ sở” là căn cứ, tiền đề quan trọng để Đảng ủy Công an Trung ương, Bộ Công an thực hiện chủ trương “tăng cường cơ sở”, xây dựng Công an xã chính quy.
Ngoài ra, Đại hội XIII cũng thể hiện tư duy mới của Đảng trong xây dựng lực lượng Công an, Quân đội rất toàn diện, thực hiện “quan tâm chăm lo thực thiện tốt chính sách đối với lực lượng vũ trang và chính sách hậu phương quân đội, công an”. Để xây dựng Công an, Quân đội hiện đại, Đại hội XIII xác định: “Tăng cường, phát triển nền công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh hiện đại, lưỡng dụng vừa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc vừa góp phần quan trọng phát triển kinh tế – xã hội”, trong đó nhấn mạnh yếu tố hiện đại, xác định rõ công nghiệp an ninh hiện đại. Như vậy, tư duy về xây dựng lực lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân được xác định với yêu cầu cao hơn.
Vấn đề tư duy mới về nghiên cứu, phát triển lý luận an ninh chưa được đề cập tại Đại hội XII. Đến Đại hội XIII, tư duy và thực tiễn nghệ thuật tổ chức bảo vệ an ninh quốc gia được xác định rõ hơn, Đảng đã khẳng định vị trí của lý luận “nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia” đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia hiện nay.
Theo TTXVN