Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập 02/9
01/08/2018 03:03
Ngày 28/8/1945, trên căn gác hai của nhà số 48 Hàng Ngang (Hà Nội), Bác Hồ bắt đầu dự thảo Bản Tuyên ngôn Độc lập. Sau này Bác nói: “Đó là những giây phút sung sướng nhất của đời mình”. Bản Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc ở Quảng trường Ba Đình lịch sử ngày 2/9/1945 không chỉ có ý nghĩa đối với nền độc lập của dân tộc Việt Nam, mà còn là sự mở đầu kỷ nguyên độc lập, tự do của các dân tộc thuộc địa, bị áp bức trên toàn thế giới. Bản Tuyên ngôn đã đánh dấu mốc son lịch sử chói lọi của dân tộc, độc lập và tự do, dân chủ cho nhân dân. Mọi người được bình đẳng, bác ái, được sống, tự do và tìm được hạnh phúc, đó là những từ ngữ đẹp với nội hàm chất chứa những nội dung nhân văn lớn và sâu sắc mà hàng triệu triệu người mong đợi.
Nội dung bản Tuyên ngôn Độc lập
Tuyên ngôn Độc lập 2/9/1945 được bắt đầu với một định đề triết học nhân văn dẫn từ Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc”. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: suy rộng ra câu ý có nghĩa là: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Kế tiếp Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng trích bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Theo tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, một Nhà nước ra đời trước hết là đảm bảo tính lập hiến, cho nên ngày 2/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, đặt nền móng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ Lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên một trong sáu vấn đề cấp bách hơn cả của chính quyền cách mạng là: “Chúng ta phải có một bản Hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng tốt cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội với chế độ phổ thông đầu phiếu”. Ngày 06/01/1946, tất cả công dân Việt Nam, không phân biệt nam nữ, giàu nghèo, dân tộc, tôn giáo, chính kiến… từ 18 tuổi trở lên đã tham gia cuộc Tổng tuyển cử tự do lựa chọn người đại diện cho mình vào Quốc hội – cơ quan quyền lực tối cao có quyền lập hiến, lập pháp.
Hơn một năm sau dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 9/11/1946, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá I, đã thảo luận dân chủ và thông qua bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử Việt Nam và đầu tiên ở Đông Nam Á, làm nền tảng pháp lý vững chắc, luật cơ bản của Nhà nước dân chủ nhân dân. Đây là đạo luật đầu tiên khẳng định “Đất nước Việt Nam là một khối thống nhất Trung Nam Bắc không thể chia cắt” (Điều 2 Hiến pháp năm 1946). “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam…” (Điều 1 Hiến pháp năm 1946).
Ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc luôn gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân. Bác nói “…nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì”. Do vậy, ngay trong những năm tháng đầy thử thách, gian nan như “nghìn cân treo sợi tóc”, Bác thường sử dụng “dĩ bất biến, ứng vạn biến” để làm phương châm chỉ đạo cách mạng. Cụm từ “bất biến” theo Bác, đó là “lòng dân”. Từ “lòng dân” là chúng ta có mọi lực lượng, sức mạnh để “ứng vạn biến”! Và thực hiện di huấn của Người, sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dân tộc Việt Nam đã tiến hành hai cuộc kháng chiến thần thánh chống hai đế quốc Pháp và Mỹ, giành lại thống nhất đất nước.
Hơn 70 năm trôi qua, tư tưởng nhân văn, tư tưởng vì dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 trở thành sức mạnh trí tuệ, đến ngay những kẻ thù thực dân xâm lược cũng phải tôn kính, cảm phục; tranh thủ được sự đồng tình của các tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, về với cội nguồn dân tộc, với lẽ sống cao đẹp. Hơn thế nữa, tố chất nhân văn đã giúp Bác tập hợp và lập ra Nhà nước gồm những nhà trí thức trên nhiều lĩnh vực của quốc gia lúc bấy giờ. Đây chính là sự toả sáng của lòng nhân ái, sự cảm thông sâu sắc, lòng yêu nước thương dân, niềm khát khao độc lập, tự do của cả dân tộc.
Kể từ ngày bản Tuyên ngôn Độc lập ra đời đến nay, vị thế đất nước đã có nhiều đổi thay, lời thề lịch sử từ Chủ tịch Hồ Chí Minh với bản Tuyên ngôn Độc lập luôn rọi sáng mọi trái tim, khối óc của người Việt Nam yêu nước trên mọi vùng, miền của Tổ quốc và định cư ở nước ngoài. Thông điệp của Tuyên ngôn Độc lập cho thế hệ người Việt Nam là: quyết giữ vững nền độc lập, tự do của Tổ quốc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Chỉ có như thế và trên cơ sở tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thì nhân quyền mới được bảo đảm. Đồng thời, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là nhân tố nền tảng cho sự tiến bộ không ngừng của quyền con người./.
Nguồn tuyengiao.bacgiang.gov.vn